Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Văn hóa. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

MỘT THỜI THƯ VIỆN

Vũ Thế Thành

Hồi còn học trung học tôi rất ít khi vào thư viện. “Thư viện” của tôi lúc đó là mấy tiệm hớt tóc, tạt vào để đọc báo… chùa. Chủ tiệm dễ dãi, quen mặt thằng nhóc nên cũng chẳng phiền hà. Đọc báo chủ yếu là xem truyện feuilleton đăng hàng ngày.

Mỗi tiệm thường mua hai, ba đầu báo. Tôi đọc hết, vì mỗi báo có feuilleton khác nhau (trừ kiếm hiệp của Kim Dung thì báo nào cũng đăng vì quá ăn khách). Nếu rảnh, lại mò qua tiệm khác đọc báo khác.

Nhựt báo ở Sài Gòn hồi đó ra buổi chiều, chứ không sáng sớm như bây giờ, khoảng bốn giờ chiều là báo đã lên sạp. Tan sở thì nhiều người bu vào sạp báo, đa số là những con nghiện feuilleton kiếm hiệp. Một thằng nhóc như tôi không có cửa để đọc báo chùa tại sạp báo, vì đó là chùa có trả phí. Chủ báo rên quá trời, vì trưa hôm sau báo bán không hết trả về kho, nhưng làm gì được nhau?

Đọc feuilleton mỗi bài chỉ cỡ 1.000 chữ, đọc không quá mười phút là xong hết hai tờ báo. Xong feuilleton thì coi lan qua cả tin tức thời sự, chuyện lá cải văn nghệ sĩ… Tuổi nhỏ đâu hiểu gì nhiều về chính trị, chính em, chuyện hậu trường hấp dẫn hơn. Tôi lại cả tin. Sau này mới biết những tin giựt gân toàn là chuyện phóng đại câu khách.

Những năm cuối trung học, tôi thường vào thư viện Hội Việt – Mỹ (VAA – Vietnamese American Association) ở đường Mạc Đĩnh Chi. Tôi học tiếng Anh ở đây, ghé vào thư viện cho tiện. Hội Việt Mỹ là tổ chức văn hóa thông tin của chính phủ Hoa Kỳ (không phải là Hội Việt Mỹ hiện nay là trường dạy tiếng Anh của tư nhân, lập lờ lấy trùng tên). Thư viện VAA lớn lắm, rộng rãi, đủ loại sách báo Việt, Anh. Tôi vào để đọc các tạp chí văn học, tuần báo, nguyệt san…, đôi khi cả tiểu thuyết, những quyển tìm không có ở các hiệu cho thuê sách bên ngoài, kể cả tiệm cho thuê sách Cảnh Hưng lớn nhất Sài Gòn lúc đó.

Trong số sách đọc ở thư viện VAA, tôi còn nhớ quyển “Cuộc đời bác sĩ Arrowsmith” của S. Lewis, gây ấn tượng mãi đến tận bây giờ. Martin Arrowsmith, một bác sĩ trẻ làm nghiên cứu y học, luôn luôn phải đấu tranh giữa chân lý khoa học vì lợi ích nhân loại và áp lực thương mại, danh vọng trong ngành y. Thời gian covid đỉnh cao ở Sài Gòn, tôi biết vài bác sĩ trẻ, cỡ 40 tuổi ở tuyến đầu, nhờ thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp ở Mỹ, nên biết dùng kháng viêm corticoide liều cao ngay từ khi bão cytokine bắt đầu, và hạ thấp liều xuống vào một, hai ngày sau, thay vì phác đồ của Bộ Y tế, khi bão cytokyne tràn ngập mới dùng thì quá muộn. Nhờ đó mà các bạn bác sĩ này cứu được nhiều mạng người. Họ đã thử vài trường hợp và thấy hiệu quả. Đứng trước bao bệnh nhân trong tình thế tuyệt vọng, họ tiếp tục làm lén, vì nếu lộ ra có thể bị tước bằng hành nghề. Khi dịch covid nguôi đi, giải pháp tăng liều corticoid mới được Bộ Y tế Việt Nam thừa nhận.

Sau dịch Covid, tôi tìm đọc lại quyển sách này trên mạng, càng đọc càng thấm thía, nhất là sau đó, thương mại dịch vụ y tế nở rộ, mọi thứ đều quy cho hậu covid. Tôi cũng biết thêm đôi chút về tác giả Lewis. Với tác phẩm này, ông đoạt giải Pulitzer năm 1926 nhưng từ chối nhận vì cho là giải thiên vị, không công tâm. Đã hơn mười năm nay tôi không còn tin vào sự khách quan của giải Putlizer, nhưng không ngờ từ thời Lewis đã thế.

Một sự kiện khác cũng thú vị ở VAA là nơi đây triển lãm mấy cục đá trên mặt trăng do phi thuyền Apollo 15 hay 16 gì đó mang về. Đá chị Hằng không đẹp, sần sùi, nhưng bài trí trong phòng ánh sáng xanh tím dịu, đẹp lung linh. Trước đó vài năm, truyền hình trắng đen trong nước có phát lại cảnh hai phi hành gia Apollo 11 đổ bộ trên mặt trăng, đã mê hoặc tuổi trẻ chúng tôi, mơ mộng sau này sẽ là nhà vật lý.

Sau khi lấy được giấy chứng nhận Anh ngữ, tôi không còn vào thư viện VAA nữa, chẳng biết chốn cũ bây giờ thế nào…

Vào đại học, tôi bắt đầu đến thư viện thường hơn. Vào thư viện không phải để mượn sách hay tìm tài liệu (dù có thẻ thư viện), mà vào để học. Bài vở ở trường cũng đủ ngập đầu, thi rớt sẽ đi lính, rất phiền cho cuộc đời. Thật ra thì không hẳn sợ rớt đi lính – tôi tự tin sức học của mình có thể pass, mà học vì khao khát kiến thức, mơ mộng thành… khoa học gia này nọ. Tôi tin hầu hết các bạn bên ngành khoa học đều có tâm trạng như vậy. Tuổi trẻ thường hoang tưởng trèo cao, càng cao càng té đau chỉ vài năm sau đó.




Đầu niên học, tôi tìm đến là thư viện Đắc Lộ ở đường Yên Đổ (Lý Chính Thắng bây giờ). Thư viện này có nhiều tư liệu cũ rất quý, không mang tính hiện đại như VAA. Nhiều sách về triết học, tôn giáo, nghệ thuật cổ điển, Bulletin des Amis du vieux Hue… viết bằng những ngôn ngữ mà tôi mù tịt. Tiếng Pháp tôi còn lơ mơ, nói gì đến tiếng Bồ, tiếng La Tinh… Duy có bộ lưu trữ các tạp chí như Đông Dương Tạp Chí, Nam Phong Tạp Chí… tiếng Việt là hấp dẫn, nhưng tôi chỉ có giờ liếc qua vài số, định bụng thi xong sẽ quay lại đọc. Thư viện này cũng có nhựt báo, tạp chí văn học… toàn hàng tuyển, vì độc giả hầu hết là sinh viên và các nhà nghiên cứu.

Đến rồi, tôi mới biết thư viện nơi đây chỉ là phần nhỏ của cơ sở Đắc Lộ. Ở đây còn có cư xá cho sinh viên, nhà nguyện, các lớp dạy sinh ngữ, trung tâm hướng nghiệp cho thanh niên, và cả studio để thực hiện các show truyền hình. Trung tâm do các linh mục dòng Tên điều hành. Dòng Tên từ năm, sáu thế kỷ nay nổi tiếng uyên bác và cũng phóng khoáng đi trước thời đại, nên không ít lần bị Vatican “dán nhãn”. Nhưng phóng khoáng lại dễ hòa đồng, nói chuyện đời, chứ không nói chuyện đạo, hay khuyến dụ người khác theo đạo. Đùa giỡn thâm thúy, khôi hài đen nên giới trẻ rất thích, bất kể lương giáo, nôm na gọi là mấy ông cha chịu chơi. Ngay chương trình truyền hình của Đắc Lộ cũng không nói chuyện đạo, mà nhắm mục tiêu là nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe, tìm hiểu quê hương đất nước…

Tu viện có ông cha Tây râu xồm, tôi lân la tán phét, xổ tiếng Anh, nhưng trời đất, ổng nói tiếng Việt sõi như người Việt, xài cả tiếng lóng như bọn trẻ. Lâu quá rồi, tôi không nhớ nổi tên ông cha dễ thương này. Sau năm 75, các cha Tây bị trục xuất về nước. Mấy ông cha Đắc Lộ mắc cái tội mê mệt Việt Nam, lại tìm cách qua Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân… giúp người Việt tị nạn. Tôi nghe nói có ông đã ở Việt Nam cả ba bốn chục năm, gắn bó với mảnh đất chiến tranh này, rồi lại phải lìa bỏ nó.

Vài năm sau 75, các cha ở dòng Tên Đắc Lộ dính vào một vụ án in ấn, tàng trữ tài liệu phản động. Một số linh mục bị bắt đi tù mấy năm. Ông thầy mà tôi đề cập trong tùy bút “Ông thầy Việt Văn” bị bắt trong vụ này, và đi tù 4 năm. Nội vụ có nhiều uẩn khuất khi tôi đến thăm thầy. Tu viện Đắc Lộ bị tịch thu, làm tòa soạn báo Tuổi Trẻ và một nhà in. Sau này nghe nói chính quyền có trả lại cho nhà dòng một phần. Báo Tuổi Trẻ dời về trụ sở mới, còn nhà in thì hình như vẫn còn ở nơi đấy.

Không khí trung tâm Đắc Lộ nói chung thân thiện, giới trẻ dễ làm quen với nhau, có khi rủ nhau làm công tác thiện nguyện cho những chương trình từ thiện của trung tâm. Chính vì không khí cởi mở, hòa ái nơi đây mà tôi lâm vào… thế kẹt. Đến thư viện, học thì không bao nhiêu, mà ham chơi, tán dóc thì nhiều! Qua Tết, mùa thi cận kề, liên tục “bể kế hoạch” học bài, tôi phải di tản kiếm chỗ học ở thư viện khác nhằm bớt trớn vui chơi.

Thư viện sau đó tôi thường đến là Trung tâm Văn hóa Đức, hình như còn có tên khác là Viện Goethe, tôi không chắc. Trung tâm này nằm trên đường Phan Đình Phùng, nay là Nguyễn Đình Chiểu, gần ngã tư Hai Bà Trưng. Thư viện Trung tâm Văn hóa Đức nằm trong một biệt thự hai tầng thoáng, rộng. Tầng trệt là văn phòng, tầng trên là thư viện. Sách báo nơi đây không nhiều và đa dạng, diện tích cũng nhỏ, có vẻ là phòng đọc sách hơn là thư viện. Nơi này nhỏ nên ít người lui tới, chừng năm, sáu độc giả vào đọc sách, đa số ngồi học thi như tôi. Không gian rất yên tĩnh, chẳng ai làm phiền ai.

Có lần, ngồi cạnh tôi là một sinh viên trẻ, tôi đoán, chắc chỉ hơn tôi một hai tuổi. Quanh chỗ anh toàn là sách và giấy đầy hình vẽ cấu hình không gian của phân tử. Tôi hỏi thăm, anh vừa xong chứng chỉ thâm cứu năm ngoái, đang làm luận án tiến sĩ đệ tam cấp. Chứng chỉ thâm cứu tương đương với bằng cao học, còn tiến sĩ đệ tam cấp đại loại như phó tiến sĩ sau này. Hệ thống văn bằng này ảnh hưởng từ nền giáo dục Pháp, và chỉ có ở Đại học Khoa học. Quá nể đàn anh, trẻ tuổi, dáng thư sinh, đeo kiếng cận, học giỏi. Sự vị nể này cũng là động lực để tôi cắm đầu chạy nước rút.

Có những chiều mưa, qua khung cửa thư viện, nhìn những giọt mưa rơi trên lá cũng thấy đôi chút bâng khuâng. Ba mươi năm sau, tôi quay lại nơi này – giờ là một bộ phận của Tổng lãnh sự quán Đức, để dự phỏng vấn xin visa. Nhân viên cơ quan không ai biết nơi đây đã từng là thư viện. Trong lòng tôi rất muốn lên lầu thăm lại chốn cũ, nhưng biết là bất khả vì vấn đề an ninh.

Nhiều năm sau nay này tôi không còn vào thư viện nữa. Cách đây một năm, tôi đến Thư viện Quốc gia để dự hội thảo. Bước ra ngoài thính phòng, thấy vài bạn trẻ ngồi dựa cột hành lang, chân duỗi dài đang say mê đọc sách, có bạn cầm bút ghi chép… Thời buổi digital, AI tràn ngập, hình ảnh thư thả với sách vở đó thật hiếm hoi. Tôi ngắm nhìn mấy cháu, chợt nhớ hơn hơn 50 năm trước, mình cũng từng có một thời thư viện với biết bao hoài bão và mơ mộng.



Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

23/12/2015 - Những mảnh giấy và hành động đáng buồn của các bạn trẻ “thế hệ HCM”

Nhà thờ Đức Bà là một trong những tụ điểm được nhiều bạn trẻ ở Sài Gòn thường lui tới nhưng hình ảnh xung quanh nó đang khiến nhiều người không khỏi thất vọng.

Ý thức giữ gìn vệ chung, vệ sinh nơi công cộng... là câu chuyện đã được nói tới quá nhiều trên báo giới cũng như mạng xã hội.
Thế nhưng, vì lợi ích kinh tế, vì sự tiện lợi bản thân... mà những giá trị chung đấy đành phải xếp lại phía sau.

Câu chuyện được nói tới mới nhất được "định vị" tại khu vực Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. Đây là một địa chỉ nổi tiếng tại thành phố giờ đây có tên hành chánh là “Thành Phố Hồ Chí Minh” [cụm từ viết hoa vì là danh từ riêng], danh lam được nhiều người lui tới thăm quan, chụp hình...

Tuy nhiên, hình ảnh đẹp xung quanh Nhà thờ đang ngày một xấu đi bởi ý thức của một bộ phận người bán hàng rong và giới trẻ khi họ thản nhiên ngồi trên bãi cỏ ăn uống với nhiều rác thải xung quanh.



Có thể thấy, ở khu vực này đã có ghi biển cấm nhưng dường như chiếc biển đó không có mấy tác dụng ngoài việc "tập kết rác thải".

Những hình ảnh này sau khi được đăng tải và lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội đã nhanh chóng thu hút được rất nhiều sự quan tâm với những lời bình luận về ý thức.

Người dùng N.T.Đ bình luận: "Để cái biển cấm ở kia làm quái gì không biết, vứt xừ nó đi cho đỡ chật đất, cắm ở đấy người ta có biết chữ đâu mà để".

"Cơn quan chức năng ra dẹp thì kêu là không tạo điều kiện cho người dân kiếm sống, mưu sinh, kêu than các kiểu... nhưng nếu không dẹp bỏ đi thì sẽ là như này đây" - người dùng B.T chia sẻ.
"Không biết là những người này có thường xuyên lên mạng comment hô hào về ý thức người này người kia không nhỉ? Mình nhớ là có câu nói rằng kinh tế của 1 quốc gia phản ánh qua ý thức và dân trí của người dâ mà" - bạn L.K bình luận.

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Tản mạn người Sài Gòn

Dân Sài Gòn chính hiệu “con nai vàng” chẳng bao giờ gọi Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh. Không nhất thiết là vì lý do chính trị. Thằng Tí thằng Tèo trong mắt bà ngoại trăm năm vẫn là thằng Tí thằng Tèo, bất kể địa vị xã hội của nó là gì.

Dân Sài Gòn “quái chiêu” lắm, lúc nào cũng than thiếu tiền, nhưng không sống tằn tiện bao giờ! Họ hào hiệp với bản thân và bè bạn; và họ luôn tìm được cách kiếm tiền.

Nhiều người bảo tôi rằng dân Nam Bộ được thiên nhiên ưu đãi, sống hôm nay khỏi lo ngày mai, nên họ sống rộng rãi hơn dân miền Trung và miền Bắc.

Có lẽ đúng. Nhưng còn cái gì đó hơn thế nữa! Kiểu ăn xài “xả láng sáng dậy sớm”, dù nghèo rớt mồng tơi, dường như ăn vào máu của dân Sài Gòn, ăn vào không khí họ thở hàng ngày, ăn cả vào cái văn hóa hổ lốn cẩu xực của họ. Dĩ nhiên để ăn xài thì đầu tiên phải kiếm ra tiền.

Kiếm tiền thì có lẽ không đâu có nhiều cách như Sài Gòn.

Trong thời còn ăn bo bo, gạo tổ đỏ lòm, thời dân Hà Nội còn ganh nhau từng cái khung Chiến Thắng, lốp Phượng Hoàng, hộp sữa cân đường tiêu chuẩn, thì dân Sài Gòn đã bắt đầu nuôi heo lậu, quấn thuốc lá Lạng Sơn pha lá dừa, làm pháo giả, bán thuốc Tây “bột năng” đầy ngoài chợ… Hiển nhiên một phần là do ưu thế xa “trung ương”, nhưng phần chính là do dân Sài Gòn sống rất “năng động”.

Những năm 79, 80 mà thấy anh nào bị cối kẹp nách, mặt mũi lấm lét ở chợ Nguyễn Hữu Cầu thì biết ngay là hắn buôn thuốc Tâỵ Sau khi chợ thuốc Tây bị dẹp thì đường Nguyễn Hữu Cầu biến thành cái chợ trời đầu tiên của Sài Gòn sau 75. Ôi thôi thì quần zin áo pun, đồ Mỹ lẫn đồ chợ Lớn, bếp điện Liên Xô dây Gò Vấp…

Ở Sài Gòn cái gì bán được là có người bán. Ðừng hòng mà mua được đồ xịn nếu mà không quen biết hay hiểu biết. Nhiều người tự thị là “rành” nhất bị lừa mà vẫn còn hí hửng. Ðó là chưa nói đến giá cả trời ơi. Tôi thường tự hỏi ai cũng bán hết thì lấy ai ra mà mua? Tiền đâu ra mà mua? Thế mà chợ lúc nào cũng đông. Ðúng là Sài Gòn!

Nếu không thích cảnh chợ búa “gần mực” thì người ta quấn thuốc lá, nuôi heo với cơm thừa canh cặn pha cám lậu ở ngay trong nhà. Chuồng heo phải lau rửa ít nhất hai lần một ngày, sợ hôi thì ít, mà sợ công an phát hiện thì nhiều.

Lái heo bốn rưỡi sáng đã mang xe ba gác đến chở. Bọn lái heo lậu giết heo còn giỏi hơn công nhân chuyên giết-mổ heo ở xí nghiệp Cầu Tre sau nàỵ Chích điện con heo chỉ kêu cái “éc” là chết ngoẻo tò te, xẻ làm bốn mất độ mươi phút, sáng hôm sau bà con có thịt heo tươi bán ở chợ.

Khi xí nghiệp nước đá Sài Gòn chưa ra đời thì nhà nhà làm đá, người người bán nước đá. “Cho con 2 cục đi dì ơi!” là câu cửa miệng trưa hè của dân Sài Gòn. Tiền điện thì vừa đắt cứa cổ vừa phải có tiêu chuẩn. Mua cả cái tủ lạnh chuyên làm đá bỏ mối tháng cho các quán cà phê vỉa hè cũng chỉ đủ tiền ăn trưa cho gia đình là giỏi.

Người ta còn buôn cả những thứ tưởng chừng như chẳng có người mua vào thời đó như phô mai Liên Xô thúi hoắc, bánh kẹo Vinabico, rượu XO pha rượu lúa, nước lã và cồn…

Ðến giữa và cuối thập niên 80 thì cơ hội kiếm tiền còn nhiều gấp bội. Sinh viên học sinh nghèo thì đi dạy thêm, quen biết hơn tí nữa thì đánh hàng Viễn Dương, hàng Ðông Ảu, buôn thuốc lá Campuchia, mua bán xe gắn máy kiếm vài chỉ dẫn “ghệ” đi chơi dễ như bỡn.

Bọn Tèo kinh doanh còn buôn cả đất đai, làm xây dựng kiến tiền tỉ khi còn chưa ra trường. Không nhất thiết phải chúi đầu vào học kiếm suất đi Tây. Sống cái đã, ngày mai là chuyện của tương lai!

Kể cả các thầy dạy luyện thi đại học cũng biết làm ăn ra trò: xây thêm nhà mở lớp học, có cả lớp học máy lạnh cho con nhà giàu học riêng một lớp năm bảy đứa. Các thầy nổi tiếng rất biết marketing, dạy cả lớp giỏi lấy tiền ít để bọn nó thi thủ khoa mang danh tiếng cho thầy, chia lớp ra làm cả chục tầng tùy trình độ.

Các chị các cô khéo tay thì làm bánh, làm hoa giả, pha nước hoa bán đầy đường Ðồng Khởi, làm kem dừa, kem chuối tăng thu nhập gia đình.



Ðừng tưởng dân Sài Gòn chỉ lo làm ăn không đọc sách. Sài Gòn có vài trăm tiệm sách cũ mà dân nghiền sách nhẵn mặt. Từ sách Giải Tích Hàm của Lê Hải Châu, sách Tuổi Hoa trước giải phóng, chưởng Kim Dung, đến hình ảnh sách báo khiêu dâm của Mỹ, Hong Kong hay báo Toán Học Tuổi Trẻ, Kvant, và mọi loại truyện ngắn, dài, tiểu thuyết nội ngoại, đều có cả.

Nhân chuyện buôn thuốc, tôi có thằng bạn đi Tây Ninh buôn hai cây thuốc Zet bị bắt tịch thu luôn cả cái xe dream. Rõ là ngu! Thằng cu phá phách kinh khủng, nhưng cũng vui tính ra phết. Có lần ngồi uống cà phê hắn bảo cô bán hàng: “Liên ơi cho anh mượn sợi dây thung.” – “Chi dzậy anh?”, Liên hỏị Nó bảo: “để anh thắt ống dẫn tinh”. Cô bé mặt đỏ lừ không biết có bỏ cái gì vào ly cà phê của nó không.

***

Sài Gòn là thế đấy, muôn người muôn mặt, đa dạng vô cùng!

Dù phần nào bị cuộc sống sôi nổi cuốn trôi, Sài Gòn vẫn có nhiều thằng Tèo mộng mơ làm thơ viết truyện dễ thương khôn tả: làm ăn tay phải, văn nghệ tay trái. Hình ảnh con Thơm cái Thắm hàng me gốc điệp không bao giờ phai nhạt trong mắt bọn Tèo Sài Gòn.



Tôi vẫn còn nhớ Tèo Nguyễn Nhật Ánh với “cô gái đến từ hôm qua”, “còn chút gì để nhớ”, “truyện cổ tích dành cho người lớn”…

“Lòng em như chiếc lá khoai/ Ðổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu…”

Hay Tèo Bùi Chí Vinh: “Cô gái ơi anh nhớ em,/ Như con nít nhớ cà rem vậy mà/ Như con dế trống đi xa,/ Lâu lâu lại nhớ quê nhà gáy chơi/ Con dế thường gáy một hơi,/ Còn anh gáy hết… một thời con trai,…”

Ðến đây tôi chợt nhận ra rằng viết về “một thời để nhớ”, về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ thì rất dễ, dễ đến mức cái thằng văn dốt chữ nát như tôi cũng “xổ nho” được vài dòng.
Khi viết cái gì ít vô thưởng vô phạt hơn một chút thì phải bắt đầu nhìn trước ngó sau, câu chữ trúc trắc, ý vẫn tràn nhưng sợ hiểu sai hiểu lệch, lại phải tránh chính trị chính em …

Tôi đã định dừng ở đây vì câu chuyện đã nhạt dần đi, cái hào hứng ban đầu của bạn đọc, nếu có, chắc cũng không còn nồng nhiệt nữa. Thế nhưng chẳng thể để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng về một Sài Gòn với hai cây thuốc Zet, tôi lại phải tìm cách khác để kết thúc. Chỉ sợ rằng cũng chẳng khá hơn 2 cây thuốc Zet là mấy.

***

Nếu phải so sánh Sài Gòn với Hà Nội chẳng hạn, thì ta có thể so sánh ngay hai loại ổi của hai xứ. Ổi đào Hà Nội thơm lừng, ngọt ngay, ruột đỏ tươi rất đẹp, nhưng cùi mỏng, hột to, vừa khó nhá vừa chỉ nhắm được tí là hết. Ổi Sài Gòn to hơn nắm tay, cùi dày, không ngọt và thơm như ổi đào nhưng giòn tan, cắn một miếng là mát lịm, lại có thể chia cho nhiều người ăn, chấm muối ớt nghe qua là chảy nước miếng.

Con gái Sài Gòn cũng vậy, nghe qua là… chảy nước miếng.

Con gái Sài Gòn dễ thương lắm! Họ có cái nhìn trong trẻo về cuộc sống, lại chẳng giận dai vùng vằng vô lý bao giờ. Ði đón trễ thì: “anh để em chờ nãy giờ đó coi có được hông? Ghét dễ sợ luôn hà!” Cộng với một cái lườm, hai cái nguýt thì bọn Tèo Sài Gòn hối hận quá cả 2 tháng sau mới… trễ lần nữa.

Con gái Sài Gòn còn biết ăn mặc, đi đứng, nhất nước. Tiền có thể thiếu chứ phong cách tiểu thư thì chẳng thiếu bao giờ. Tiểu thư Sài Gòn không ưỡn ẹo mè nheo, mà phóng xe vèo vèo đứng tim Tèo.

Giọng gái Sài Gòn thì ngọt hơn mía lùi. Cái câu “hổng chịu đâu” mà nghe dân xứ khác nói thì ngứa lỗ nhĩ, nghe con gái Sài Gòn nói thì bọn Tèo Sài Gòn như bong bóng xì hơi, biểu cái gì cũng nghe ráo trọi. Con gái Sài Gòn lãng mạn chẳng kém ai, nhưng cũng rất thực tế. “Ðược thì được hổng được thì thôi, làm chi mà dzữ dzậy!”.

Sài Gòn là vậy đó, ít nhất là từ cái nhìn của Tèo tôi. Sài Gòn dễ thương khôn tả, khoáng đạt và bao dung, rộng rãi và hào phóng. Người Sài Gòn sống nhanh nhất nước, không sợ cái mới, ghét cái lỗi thời, rất thực tế.

Còn ti tỉ nhiều đề tài thú vị về Sài Gòn mà tôi không muốn đề cập vì lười là chính: cuộc sống sinh viên học sinh Sài Gòn, các trò ma mãnh “cua ghệ” của bọn Tèo Sài Gòn, con trai Sài Gòn, bạn bè Sài Gòn,…

Tôi đã nghe rất nhiều những lời nhận xét kiểu vơ đũa cả nắm: con trai Sài Gòn thế này, con gái Sài Gòn thế kia, dân Sài Gòn thế nọ… Càng nghe càng thấy buồn cười vì đa số những người nói mấy câu đó chưa bao giờ thật sự sống ở Sài Gòn.

Không hiểu có ai đó đọc bài này xong thì có thay đổi cái nọ cái kia trong nhận thức của họ không? Hy vọng nhỏ nhoi của tôi là những thay đổi, nếu có, là theo hướng tốt hơn.

Riêng tôi thì tôi vẫn nhớ rằng hồi con nít, tên ở nhà của tôi là... Tèo!

Giờ thì thằng Tèo đã già, nên cái nhớ này cứ xọ cái nhớ kia.


Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2015

10/10/2015 - Giải mã thứ bậc thầy Hai, con Tám của Sài Gòn xưa

Công chức, người có học là thầy Hai, người Hoa buôn bán là chú Ba, đại ca giang hồ là anh Tư, lưu manh là anh Năm... người lao động nghèo xếp thứ Tám, chị em ta buôn bán "vốn tự có" thứ Chín...

Chiều muộn hôm qua có cậu bạn đi công việc ghé ngang nhà rủ làm ly cà phê tán dóc. Nói chuyện lan man một hồi, tự nhiên anh chàng kể công ty em có ông già gác cửa rất hay nói câu "bỏ qua đi Tám"...

"Em chả hiểu, có lần hỏi thì ổng nói đại khái là dùng khi can ngăn ai bỏ qua chuyện gì đó, nhưng sao không phải là Sáu hay Chín mà lại là Tám thì ổng cũng không biết", cậu bạn thắc mắc.

Dựa vào những câu chuyện xưa cũ, những giai thoại, nên kể ra đây chút nguyên cớ của câu thành ngữ có lẽ sắp "thất truyền" này, biết đâu có dịp nào đó anh em có thể dùng để "buôn dưa lê" lúc "trà dư tửu hậu".

Trước hết, phải biết là câu này phát sinh ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn từ thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó, cách xưng hô thứ bậc trong xã hội rất phổ biến và phần nào phản ánh vị trí xã hội, giai cấp... một cách khá suồng sã và dễ chấp nhận.

Đứng trên hết là các "quan lớn" người Pháp hoặc các quan triều nhà Nguyễn, đám này thì không "được" xếp thứ bậc vì giới bình dân hầu như không có cơ hội tiếp xúc đặng xưng hô hay bàn luận thường xuyên.

Kế đến là các công chức làm việc cho chính quyền, họ ít nhiều là dân có học và dân thường hay có dịp tiếp xúc ngoài đời, là cầu nối giữa họ với các thủ tục với chính quyền, đó là các "thầy Hai thông ngôn", hay "thầy Hai thơ ký"...

Hàng thứ Ba là các thương gia Hoa Kiều, với tiềm lực tài chính hùng hậu và truyền thống "bang hội" tương trợ, liên kết chặt chẽ trong kinh doanh, các "chú Ba Tàu" nghiễm nhiên là 1 thế lực đáng vị nể trong mắt xã hội bình dân Sài Gòn - Chợ Lớn thời đó.

Xếp thứ Tư là các "đại ca" giang hồ, những tay chuyên sống bằng nghề đâm chém và hành xử theo luật riêng, tuy tàn khốc và "vô thiên vô pháp" nhưng khá "tôn ti trật tự (riêng)" và "có đạo nghĩa" chứ không tạp nhạp và thiếu nghĩa khí như các băng nhóm "trẻ trâu" hiện đại. Các "anh Tư dao búa" vừa là hung thần, vừa ít nhiều lấy được sự ngưỡng mộ của giới bình dân (và cũng không ít tiểu thư khuê các) thời đó.

Thứ đến là vị trí của giới lưu manh hạ cấp hơn: các anh Năm đá cá lăn dưa, móc túi giật giỏ, hay làm cò mồi mại dâm...

Bị giới bình dân ghét hơn đám lưu manh côn đồ là các "thầy Sáu phú-lít (police)", "thầy Sáu mã tà", "thầy Sáu lèo". Chức trách là giữ an ninh trật tự, chuyên thổi còi đánh đuổi giới buôn gánh bán bưng bình dân, nhưng các "thầy Sáu" này cũng không từ cơ hội vơ vét ít tiền mọn "hối lộ" của họ để "nhẩm xà" (uống trà).

Và trong giới buôn bán thì không thể thiếu chuyện vay vốn làm ăn, mặc dù Tàu hay Việt cũng đều có tổ chức cho vay. Nhưng phổ biến và "quy củ" nhất ở cấp độ trung - cao khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn thời đó là các "anh Bảy Chà và", các anh này là các nhà tài phiệt người Ấn, vừa giàu vừa ít bị "ghét", vừa ít nhiều có quan hệ qua lại với giới chức người Pháp, lại làm ăn đúng luật lệ, ít thừa cơ bắt chẹt lãi suất nên khá được giới kinh doanh tín nhiệm.

Xếp thứ Tám chính là lực lượng đông đảo nhất xã hội bình dân bấy giờ: họ là giới lao động nghèo chỉ có sức lục làm vốn nuôi miệng, từ bốc vác, gánh nước bồng em, đến "sang" hơn tí là phu xe kéo...

Tuy đông nhưng lại yếu thế nhất vì không có hoc, không có tiền như thầy Hai, anh Ba, cũng hiền lành chứ không bậm trợn phản kháng bạt mạng như các anh Tư anh Năm nên họ thường xuyên chịu sự áp bức, bắt nạt từ mọi phía. Cách để yên thân khả dĩ nhất với họ là khuyên nhau cắn răng nhẫn nhịn, quên đi để sống: "Bỏ qua đi Tám", bây giờ chắc là đã dễ hiểu rồi.

Không còn liên quan nữa, nhưng nhân tiện sẵn nói luôn về thứ bậc chót cùng trong xã hội thời đó: các cô, các chị Chín xóm Bình Khang chuyên "kinh doanh" bằng "vốn tự có".

Dài dòng tí để trình bày chút kiến giải về một câu thành ngữ đang dần bị quên lãng dùng để bày tỏ thái độ khuyên người hoặc tự an ủi mình hãy đừng để ý những chuyện không vui, hay bị ai đó "chơi không đẹp".

Nếu lỡ đọc thấy không có gì thú vị thì thôi, "bỏ qua đi Tám"!

Phan Quốc Bảo

(Quán cà phê, nơi người Sài Gòn xả stres và "tám" đủ chuyện trên đời - Ảnh: M.C)

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Thầy giáo hay thợ dạy?

Các quyển sách giáo khoa trước 1975, thường ghi đằng sau tên tác giả là “tốt nghiệp đại học sư phạm”, rồi mới ghi tới học vị cử nhân, cao học (nếu có). Tác giả nào cũng hãnh diện mình là dân sư phạm, dù họ thừa biết, kiến thức (chuyên môn) của cử nhân giáo khoa gấp đôi sư phạm.

Tôi kính nể thầy cô giáo đã biến một học sinh có học lực kém thành học sinh trung bình, hơn là học sinh trung bình thành học sinh giỏi.

Nghề giáo thường ít đi công tác, nên ít có cơ hội cọ xát với “cuộc đời”, ít biết thêm về những tiến bộ của công nghệ và khoa học. Thế giới của họ là sách giáo khoa và thành tích.

Không có thành tích là không xong với nhà trường. Ở lớp cuối bậc trung học, thành tích là tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông, cao hơn là số học sinh đậu đại học, và cao hơn nữa có học sinh đạt giải cấp quận, cấp thành phố, cấp quốc gia, hay olympic. Ban giám hiệu cần thành tích, thầy cô cần thành tích, nhưng học sinh có cần hay không, thì tôi không chắc.

Để đạt được thành tích, thầy cô cũng phải vất vả sưu tầm những bài toán khó, những câu hỏi độc địa, mà đồng nghiệp cùng bộ môn với họ cũng chưa chắc giải được. Trong thế giới càng nhiều câu hỏi độc địa như thế, càng chứng tỏ sự kiến thức của giáo viên trong lĩnh vực chuyên môn (về hóa, lý hay sinh chẳng hạn), và không ít giáo viên tự hào về điều này.

Tôi tự hỏi, kiến thức về những câu hỏi đánh đố như thế có sánh được với kiến thức chuyên môn của những người đang làm công nghệ hay đang làm nghiên cứu không, chẳng hạn giáo viên sinh so với người đang làm trong lĩnh vực vi sinh hay lai giống.

Chẳng ai đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức chuyên môn sâu. Kiến thức chỉ vừa đủ thôi là được. Điều cần là kiến thức và kỹ năng sư phạm mà giáo viên được học từ trường và tích lũy qua năm tháng giảng dạy, những thứ mà các vị kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ không được học, và không có kinh nghiệm như họ.

Các quyển sách giáo khoa trước 1975, thường ghi đằng sau tên tác giả là “tốt nghiệp đại học sư phạm”, rồi mới ghi tới học vị cử nhân, cao học (nếu có). Tác giả nào cũng hãnh diện mình là dân sư phạm, dù họ thừa biết, kiến thức (chuyên môn) của cử nhân giáo khoa gấp đôi sư phạm.

Kỹ năng sư phạm được đánh giá qua thành tích 100% học sinh tốt nghiệp, hay 90% trên điểm sàn đại học, hay đoạt giải quốc gia liệu có đúng không? Và rồi trong những buổi dự giờ, rồi phê bình nhau giữa các đồng nghiệp cùng bộ môn thế nào? Những đánh giá này khách quan, cảm quan hay còn vì lý do tế nhị nào khác?

Để đưa 1 lớp chỉ toàn là những học sinh kém, lên mức ít kém hơn cần một phương pháp sư phạm khác, hay nói khác, cần sự sáng tạo sư phạm trong một trường hợp cụ thể. Con người có ai giống ai đâu, nhất là ở lứa tuổi thiếu niên. Ai thấy được những nỗ lực âm thầm của giáo viên đứng lớp? Chia sẻ kinh nghiệm hay chỉ biết phê phán, hay chỉ biết chì chiết nhau chỉ vì cá nhân mà làm hạ thành tích của tổ, của trường?

Học sinh được luyện tập để phản xạ với những kiểu toán khó, toán di truyền, toán hóa, toán lý,…Khi thi, trật tủ thì coi như bị tủ đè. Cách học như thế coi như loại bỏ tư duy và tinh thần tự học, tìm tòi. Hậu quả chẳng cần chờ đợi lâu đâu, chỉ cần sinh viên qua đến năm thứ ba, thứ tư đại học, khi bước vào những môn học có tính nghề nghiệp thì sẽ lộ rõ ngay. Với kiến thức (gạo bài) cùng với “kỹ thuật thi cử” thì sinh viên dư sức qua cầu, nhưng kỹ năng làm việc, vận dụng kiến thức để đưa vào thực tế thì sao?

Tôi còn nghe nói đâu đó, có tình trạng vận động, thậm chí chạy chọt để có “chức” tổ trưởng bộ môn, với đủ “quyền uy” để đi tới mục tiêu là lùa học sinh đi học thêm. Điều này đúng tới đâu và liệu có phổ biến không?

Kiến thức của một kỹ sư, tiến sĩ có thể tạo ra 1 sản phẩm cụ thể, nhưng với kỹ năng sư phạm thì sản phẩm là con người. Và vì liên quan đến con người thì sáng tạo sẽ thiên hình vạn trạng. Một học sinh giỏi, có thể chẳng cần đến giáo viên giỏi, nhưng một học sinh kém thì cần, và nhiều khi cần cả tấm lòng nữa. Rồi biết đâu, chỉ từ một học sinh kém thành 1 học sinh trung bình, cũng đủ làm thay đổi số phận một con người. Nghề giáo được cả nước tôn vinh là vì thế, chứ chẳng lẽ tôn vinh vì lùa học sinh đi học thêm, để đạt thành tích 100% tốt nghiệp, hay đậu đại học?

Đổi mới sách giáo khoa chỉ cần 1-2 năm, nhưng đổi mới thầy giáo thì có cần không? Một khi bệnh thành tích đã in vào não trạng thì phải cần bao lâu mới đổi mới được? Và một khi giáo án đã trở thành xơ cứng, thì sáng tạo sư phạm sẽ bị hủy diệt. Thầy giáo trở thành thợ dạy.

Khi viết bài này, tôi nghĩ đến những giáo viên đang kiên nhẫn với những học sinh học kém, và nhất là với những thầy cô ở vùng sâu vùng xa. Tôi muốn ngàn lời xin lỗi họ vì bài viết này. Họ chẳng có thành tích gì so với tiêu chuẩn thầy giáo thời đại, nhưng đối với tôi họ đúng là những người thầy.

Vũ Thế Thành


Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Những câu chuyện nhỏ

Ở Sài Gòn, thường giữ xe miễn phí ở mấy quán café, quán ăn, quán nhậu… Miễn phí là không thu tiền giữ xe, dĩ nhiên ở đâu cũng miễn phí.

Có những thứ, ở Sài Gòn, rất nhỏ, nhỏ quá không thành chuyện, nhỏ nhặt đến mức không ai để ý, ai cũng coi là chuyện lình bình hằng ngày, như nắng như mưa, như cái cây cụt ngọn như đèn đường vàng vọt lúc tối trời, nhỏ bé và nhẹ nhàng đâu đó như một tiếng một cái phủi tay, như lóc cóc tiếng mì gõ, như một vốc trái cây bốc thêm… Nhỏ lắm, vậy mà khi xa người ta mới nhớ, mới thương, mới lật đật ra vô coi ngó, thầm thỉ với mình, ủa ở đây hổng giống Sài Gòn, ủa vậy là mình nhớ Sài Gòn sao, kỳ vậy cà.

1. Ở Sài Gòn, thường khi dừng đèn đỏ ngã tư, nếu trời nắng người ta sẽ dừng ở bóng cây gần nhứt, cho dù cái chỗ dừng xe còn cách cái đèn đỏ chừng chục mét, mà không ai thấy phiền, xe sau nối xe trước, chen chúc trong cái bóng mát nhỏ nhoi đề chờ lao tiếp vào dòng người khi đèn xanh bật sáng, trong ầm ĩ tiếng động cơ phố xá, rồi cô gái ngồi sau bất chợt hỏi: “Cây gì bông tím đẹp ghê ta”, tiếng đáp từ một người đàn ông nào đó, xa mãi phía sau: “Bằng lăng”.

2. Ở Sài Gòn, khi đừng đèn đỏ, nếu đường không quá đông, người ta vẫn luôn chừa một lối nhỏ, ngay bên phải sát lề, để dành cho những chiếc xe máy quẹo phải, nếu quên chừa thì người cần quẹo cứ nhích tới xin, hoặc một người khác tự động nhắc, bà con xích qua chút cho người ta quẹo phải, chỉ vậy thôi, chút nhường nhịn giữa phố phường lộn xộn, hổng ai nhớ, không ai làm ơn cho ai cũng không ai cần luật lệ làm chi, chỉ là một thứ vô hình, mà người ta hay gọi là, biết điều.

3. Ở Sài Gòn, khi đi ngoài đường lỡ làm rớt món đồ nào đó. V í dụ như cái nón, cái áo, cái mạng che mặt, cái cặp sách… mấy anh chở hàng làm rớt bịch hàng, nếu không sợ xe khác cán phải món đồ thì chỉ cần dừng lại, quay đầu nhìn về hướng món đồ mình làm rớt, rồi lát tự động có người đi sau lượm đưa lại, đôi khi đưa tận tay, cũng có khi vội vã người ta lấy cái chưn móc món đồ lên, chạy tới rồi đá qua cho bạn, y như làm xiếc, coi kỳ lắm.

Cũng có khi bạn làm rớt mà không biết, người ta cứ lượm, rồi lạch đạch chạy theo để đưa cho bạn, nhiều khi món đồ không bao nhiêu nhưng mà bạn vui, vậy rồi người ta cũng tất tả đi, không kịp nhìn mặt bạn để nhận một nụ cười, một tiếng cảm ơn

4. Ở Sài Gòn, thường giữ xe miễn phí ở mấy quán café, quán ăn, quán nhậu… Miễn phí là không thu tiền giữ xe, dĩ nhiên ở đâu cũng miễn phí, mà Sài Gòn miễn phí có tặng kèm nha, kèm nụ cười, dù có thẻ hay không thẻ. Mấy anh bảo vệ giữ xe quán thường rất dễ thương, bạn chỉ cần chạy xe tới quán, đá chống rút chìa khóa cầm thẻ rồi cứ vậy lững thững vô quán, anh bảo vệ sẽ tự động dắt xe bạn, xếp vô hàng, khéo léo để không làm trầy xe bạn, nếu trời nắng anh kiếm tấm bìa che lên yên xe, trời mưa anh phủ bạt cho khỏi ướt, mà rủi có ướt, lát nữa dắt xe ra anh sẽ lau khô cho bạn.

Bạn ăn uống thoải mái nha, lúc bạn lục đục tính tiền thì anh bảo vệ nọ đã đẩy xe bạn ra khỏi hàng, cầm cái đuôi xe vừa cười vừa hỏi: “Anh Hai đi hướng nào để em dẫn”, bạn hất mặt hướng nào thì anh sẽ dẫn xe ra hướng đó, bạn đưa thẻ và đi, có dư tiền lẻ bạn cho anh năm ba ngàn, không thì thôi, hổng sao, có khi bạn cho người ta còn hổng dám nhận, vẫn tiễn khách vui vẻ: “Cảm ơn anh Hai ủng hộ, mơi mốt ghé nữa anh Hai”… Anh bảo vệ kiêm dẫn xe đó, lương cũng năm ba triệu, đứng ngoài nắng ngoài mưa, có cười một trăm lần một ngày, có dẫn mấy chục chiếc xe cũng không thêm mấy đồng bạc, đừng nghĩ người ta làm vì tiền mà mang tội.

5. Ở Sài Gòn, mấy người đi xe máy chở hàng nặng hay cồng kềnh, thường chở yên sau cột bằng dây, đa phần là xe ôm làm thêm việc giao hàng hoặc mấy anh chuyên lấy hàng ở chợ đầu mối, nhiều khi đi lặc lè ngoài đường mà có tới mấy chục người theo nhắc: “Em ơi tuột dây kìa”, “Ê sao nó nghiêng bên này dữ vậy mày”, “Anh ơi coi chừng rớt cái bịch bên này”… Rồi tỷ như rủi mà có tuột dây, có rớt hàng, thì tự động người ta dừng lại, khiêng lên xe phụ, tấp vô lề cột lại giúp… Chớ mình anh giao hàng sao làm được, nên người đi giao hàng ở Sài Gòn thường không sợ chở hàng nhiều, không sợ đi một mình, bởi có gì nhờ bà con người ta phụ.

Đàm Hà Phú


Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Khí chất người Sài Gòn

Trong những lúc “trà dư tửu hậu” hay “ngồi đồng” ở quán cà phê vỉa hè Sài Gòn, chúng tôi nói đủ chuyện : từ chuyện lịch sử tới tin tức xã hội, từ văn hóa tới kinh tế… Nói gì thì cuối cùng vẫn quay về chuyện CON NGƯỜI – cái gốc của mọi chuyện. Bởi vì xã hội nào tạo nên con người ấy, con người nào phản ánh xã hội ấy.

Những người bạn của tôi, và cả tôi nữa, hầu hết đã sống ở Sài Gòn trên dưới 40 năm, từ nhiều vùng miền nhiều tỉnh thành, do những hoàn cảnh khác nhau mà đến/ vào/ về Sài Gòn sinh sống. Có thể coi chúng tôi là “người nhập cư” vì cha mẹ không sinh sống ở Sài Gòn và chúng tôi không sinh ra tại đây, nhưng cũng có thể coi là “người Sài Gòn” bởi vì chúng tôi đã trưởng thành, lập gia đình, làm việc cho đến lúc nghỉ hưu, thậm chí có lẽ “nhắm mắt xuôi tay” cũng ở đây.

Nhưng thế hệ con cái chúng tôi được sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, mặc dù quê quán ghi trên Chứng minh nhân dân ở đâu thì chúng vẫn tự nhận là “người Sài Gòn chánh hiệu”. Tất nhiên, nếu coi hộ khẩu là điều kiện tiên quyết thì chúng tôi phải được coi là người Sài Gòn “xịn”.

Ở Sài Gòn khái niệm “người nhập cư” thường được sử dụng trong cơ quan công quyền để phân biệt người có hộ khẩu và người không/ chưa có hộ khẩu ở Sài Gòn, nhằm mục đích “quản lý hành chánh”. Giới nghiên cứu hay gắn khái niệm này với loại hình “kinh tế phi chính thức” trong việc nghiên cứu hoạt động kinh tế của đô thị Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh.

Còn trong đời sống hàng ngày hầu như người Sài Gòn ít sử dụng cách nói “người nhập cư” hay “dân nhà quê”, “dân tỉnh” mặc dù ở miền Tây Nam bộ hay gọi người Sài Gòn là “người thành phố”, đi Sài Gòn là “lên thành phố”. Vậy thì tôi, vừa với tư cách là “người nhập cư” vừa là “người Sài Gòn” có thể biết gì, hiểu gì về Người Sài Gòn? Có thể bắt đầu từ vài nhận biết có phần rời rạc sau đây chăng?

Đầu tiên, “người Sài Gòn” là sự hòa nhập về văn hóa (tính cách, lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, ẩm thực, trang phục…) của người Việt, người Hoa và những tộc người “bản địa”. Người ta cứ quen nói rằng “Sài Gòn 300 năm”, nhưng đó chỉ là nói về thời kỳ thiết lập nền hành chính của Chúa Nguyễn từ 1698 mà quên mất/ chưa biết Sài Gòn còn có quá khứ hơn 3000 năm của văn minh Đồng Nai – Cửu Long.

Văn minh ấy do những tộc người khác “Việt” dựng nên. Rồi từ thế kỷ XVI – XVII, người Việt, người Hoa đã dấn bước vào vùng đất này, từ đó Sài Gòn, Nam bộ có thêm lớp chủ nhân mới. Cùng với người Khmer, người Mạ, người Chăm… sự hòa nhập truyền thống, văn hóa của tất cả những chủ nhân đã tạo nên Sài Gòn và người Sài Gòn mới mẻ, năng động và chân tình.

Khi nói đến người Việt người ta hay nói đến truyền thống lịch sử lâu đời và hào hùng, bốn ngàn năm văn hiến, văn minh sông Hồng, con rồng cháu tiên, những triều đại nổi tiếng chiến thắng ngoại xâm… Còn khi nói đến người Việt (ở) Nam bộ thì đầu tiên là kể về điều kiện tự nhiên thuận lợi của đồng bằng sông Cửu Long: vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng người thưa, ít bị thiên tai như bão lụt hạn hán… Sau mới nói về nguồn gốc “lưu dân” và 300 năm hình thành.

Nghiên cứu gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên.

Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính.

Không hay than vãn, người Nam bộ bình thản “làm chơi ăn thiệt”. Đây chỉ là một cách nói đơn giản hóa, “coi vậy mà hổng phải vậy”, coi khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.

Người Sài Gòn/ Nam bộ di chuyển càng xa cái “gốc” đồng bằng sông Hồng thì sợi dây truyền thống càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” khép kín biến đổi theo thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa – xã hội khác.

Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới “làm đại nghen? Ừa, làm đại đi” là phong cách làm ăn Sài Gòn/ Nam bộ. Làm đi, có sai cũng không sao, làm lại/ sửa sai mấy hồi! Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.

Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, việc tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở và trong các mối quan hệ xã hội và trong gia đình.

Tính chất dân chủ trong xã hội phát triển nhanh, biểu hiện ở chỗ cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân cao “dám làm dám chịu”.

“Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn ba đặc điểm trên tạo nên người Sài Gòn/ Nam bộ. “3 trong 1” từ ứng xử đến làm ăn, trong sinh hoạt… không tách rời một đặc điểm nào, hình thành tính cách và làm nên hiệu quả của “công chuyện làm ăn” của người Sài Gòn.

Nói về Nam bộ thì không có hay ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung với văn hóa và người Sài Gòn nói riêng (có chăng có thể phân biệt chút ít giữa Đông và Tây Nam bộ). Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, làm ăn…

Có lẽ vì vậy mà ở Sài Gòn khi cần thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “nhà quê” hay “thành phố”. Giai đoạn đương đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt.

Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; Người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt.

Còn Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về (tản cư, sơ tán) nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố. Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời;

2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, tổ chức chính quyền chưa kịp thích nghi với những đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất. Những đặc điểm này để lại cho Hà Nội và Sài Gòn nhiều khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại.

Nhưng, ai đã vô Sài Gòn làm ăn sinh sống, chắc chắn trở thành “người Sài Gòn”, bởi Sài Gòn phóng khoáng và rộng rãi mang lại cơ hội cho mọi người, bởi Sài Gòn không tự coi mình là đặc biệt khi đang sống bằng nguồn lực của chính mình và của những người đến từ mọi miền, đồng thời Sài Gòn cũng luôn chia sẻ, đóng góp những gì mình có cho cả nước.

Là kẻ hậu sinh trong việc nghiên cứu về văn hóa Sài Gòn/ Nam bộ; lại chưa được coi là “người Sài Gòn chánh hiệu”, vậy mà dám “tản mạn” về Sài Gòn và người Sài Gòn, âu cũng do cái tính “làm đại” của người Sài Gòn/ Nam bộ đã nhiễm vào người. Kính mong các bậc trưởng thượng về “Sài Gòn học, Nam bộ học” lượng thứ.

Nguyễn Thị Hậu



Thứ Ba, 18 tháng 8, 2015

Chuyện của một thời

“Trong ký ức mình chỉ nhớ 2 lần đổi tiền, lần 22-09-1975 và 14-09-1985. Lần ở giữa không nhớ. Sau lần đổi tiền đầu, 2/3 gia đình mình phải đi kinh tế mới. Lần thứ ba là lúc mình đã phải lao động để có tiền tự chi tiêu. Lúc đó, sáng sáng mượn xích lô của anh chạy từ 4 giờ đến 5g30, 6g là đi học. Lần thứ hai thì không có kỷ niệm gì cả…”. Một vị linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn đã viết như vậy.

***

Hai năm trước. Vào một ngày tháng tư.

Thằng bạn Việt kiều gửi mail cho tôi: “ …Sài Gòn dạo này còn nhiều xích lô không? Cứ đến những ngày tháng tư này, tao lại nhớ đến xích lô. Bây giờ, mày chạy 2 bánh nổi không?….”. Chạy 2 bánh ở đây là nghiêng xe, giữ thăng bằng, thì xích lô 3 bánh có thể chạy bằng 2 bánh.

Tên Việt kiều này có thời là đồng nghiệp xích lô của tôi. Nó đang theo học ban triết (Tây) thì đứt phim. Sau 75, mọi ngành học bên văn khoa (trừ ngoại ngữ) đều có vấn đề, môn triết lại càng có vấn đề hơn nữa. Nó (phải) bỏ học, sống lông bông đủ kiểu. Tôi theo ngành khoa học nên được chiếu cố cho học nốt những môn còn thiếu, ra trường và làm việc tại một trung tâm nghiên cứu.

Một buổi chiều cũng dạo tháng tư thế này, lang thang ngoài phố, tình cờ gặp nó đang đạp xích lô. Tay bắt mặt mừng. Y ra hiệu cho tôi bước lên xe, chở thẳng ra quán nhậu lề đường. Chén thù chén tạc, đời xích lô lắm chuyện ly kỳ bụi bặm. Y bảo: “ Tao mướn xe tháng, xài không hết công suất, chiều tối hay sáng sớm gì đó, khi nào rảnh, mày lấy xe tao chạy kiếm thêm tiền”. “Tao chưa thử xích lô lần nào. Có dễ chạy không?”, tôi hỏi. “Không khó lắm”.

Nói vậy cũng hơi ngần ngừ, ngoài giờ làm việc cho cơ quan nghiên cứu, tôi còn dạy kèm thi đại học cũng kiếm thêm được chút đỉnh đủ nhậu lai rai. Một bà bước đến bên bàn nhậu hỏi:

– Xích lô! có đi không?
– Nghỉ rồi dì, thằng bạn lắc đầu

Vài ly rượu đủ làm tôi bốc lên:

– “Để tao! Ngồi đó chờ một chút”, tôi quay qua bà khách: “Dì đi đâu?”

Hình như tôi có khiếu… đạp xích lô. Chẳng cần tập tành gì cả, mọi thứ đều an toàn, trót lọt. Nửa tiếng sau, tôi trở lại quán rượu, đặt số tiền của cuốc xe đầu tiên lên bàn, cười sảng khoái: “5 giờ rưỡi chiều mai, tao ghé nhà mày lấy xe”.

Những năm sau 75 mọi thứ đều đổi đời. Leo lên chiếc xích lô tôi cũng phải ăn mặc và ứng xử như một người đạp xích lô thứ thiệt. Xắn cao ống quần chân phải để khỏi bị xích xe nghiến nát kẻo tai nạn dập mặt cũng không chừng. Nhưng điều quan trọng là phải đội nón, tránh nắng là chuyện nhỏ, tránh gặp mặt người quen mới là chuyện lớn. Thành phố Sài Gòn đông người mà ngõ hẹp, không ít lần tôi đã “đụng” phải học trò, đồng nghiệp, thậm chí cả bạn (gái) ngoắc xe. Đời lắm nỗi oái oăm!

Có lần tôi chở hai bà khách, mà trọng lượng của cả hai chắc cũng trên tạ rưỡi. Trưa nắng, dốc cầu Thị Nghè dài như vô tận. Tôi chợt thấm thía câu thơ của Cao Bá Quát: “Trời nắng chang chang người trói người…”. Trời ơi! Hai bà khách vẫn vô tư cười nói, sao họ không xuống xe đi bộ một quãng cho mình đỡ khổ! Cho dù thế nào, có Chúa làm chứng, tôi đã tận lực làm tròn nhiệm vụ của thằng đạp xích lô.

Dốc mỗi lúc mỗi cao, lực bất tòng tâm, tôi không còn ghì nổi tay lái, chiếc xe đổ nhào về phía trước… Đôi khi con người cũng nên biết lắng nghe những lời chửi rủa mà tưởng như đang nghe nhạc… trữ tình, cuộc đời nhờ đó sẽ đỡ khổ hơn chăng?

Một trường hợp khác, tôi chở một bà khách ăn mặc quý phái, túi da, vòng vàng, son phấn sáng rực. Thỏa thuận địa điểm và giá cả xong, tôi khởi hành, dù giá hơi hẻo, nhưng chở một người thì xe cân bằng, dễ chịu hơn đi xe trống. Khi tới nơi, bà khách nói đi xích tới nữa, sắp tới, và tới nữa,… cũng cả hơn 2 cây số. Đến đây thì tôi hiểu mình bị lừa vặt, dừng xe lại, và lịch sự mời bà khách xuống. Bả sừng sộ: “ Mày là thằng đạp xích lô, chứ là cái thá gì mà đòi nói bà xuống….”.

Tôi nổi nóng, nhảy xuống xe, định ăn thua đủ, nhưng thoáng thấy quần mình đang mặc, ống thấp ống cao,… Trong nháy mắt, tôi chợt nhận ra đúng thân phận, mình chỉ là thằng đạp xích lô. Tôi xua tay: “Tặng bà cuốc xe đó”, rồi lên xe đạp thẳng, còn kịp nghe tiếng nguýt đuổi theo: “ Xí….! Nghèo mà còn làm phách…”.

Những năm cuối thập niên 70, đầu 80 chẳng ai sống bằng lương nhà nước nổi. Lương kỹ sư khoảng 73 đồng. Nhu yếu phẩm gạo (13kg), đường (0,5kg), thịt mỡ (0,6kg),… được mua theo giá chính thức. Cũng phải kể, đàn ông được thêm mua 3 gói thuốc đen, phụ nữ vài thước vải mùng. Mấy thứ này ngốn hơn nửa tiền lương rồi.

Còn giá thị trường đại khái thế này: 3 đồng/ tô phở bình dân, 3 đồng/xị rượu hạng bét, 0,5 đồng/ly cà phê bắp,… Đó là mức sống tiêu chuẩn cán bộ (kỹ thuật) là thế. Còn dân thường hầu như phải vật lộn theo giá thị trường, sổ gạo khi có khi không, chen lấn, khoai mì, bo bo, hàng độn đủ thứ… Vậy mà thiên hạ vẫn sống, vẫn loay hoay kiếm cái gì đó để ăn, để tồn tại. Sức đề kháng của con người để sinh tồn trong nhiều trường hợp thật không tưởng tượng nổi. Sau này tôi mới hiểu vì sao mấy ông tù cải tạo, phải chờ thả về nhà mới chịu… đổ bệnh.

La cà trong giới xích lô tôi mới biết ra rằng, không ít người là trí thức (cũ) đã chọn con đường mưu sinh này. Khá bộn cái gọi là “ngụy quân, ngụy quyền” cũng tham gia vào nghề này. Họ khó có chọn lựa nào khác. Ai cũng tìm cách che giấu thân phận, nhưng “phát hiện” ra nhau không phải là điều khó. Lúc ế độ, không có khách, táp xe vào bóng mát nào đó, nằm khểnh trên xe đọc sách: tri thức vẫn là một nhu cầu, ngoài chuyện ăn uống.

Tôi biết có nhiều nhà giáo sau 75 bỏ nghề để đi hớt tóc dạo, bán thuốc lá lẻ, sửa giày dép,… Tôi hỏi một vị: “ Bộ không được lưu dụng hay sao mà bỏ nghề giáo, làm nghề này chi cho cực?”. “Không, tôi tự nguyện “mất dạy”. Tôi thà “mất dạy”…”, ông cựu giáo chức cười méo miệng. Tôi không hỏi thêm nữa, sợ ông buồn.

Có một nghề mà mấy ông cựu thầy giáo rất thích, đó là nghề bơm mực bởi vì nó dính dáng tới văn phòng tứ bảo, cũng gần gần với cái “nghiệp” năm xưa của mấy ổng. Tôi xin mở ngoặc một chút để các bạn trẻ có thể hình dung về cái nghề lỗi thời này. Bút bi mà các bạn đang dùng, xài hết mực thì vất đi. Sau 75, bút bi thuộc loại “quý giá” và là hàng dễ hỏng. Bút nào mà xài được tới hết mực, được xem là hàng… chất lượng cao, xài hết thì mang ra ngoài đường bơm mực, xài tiếp.

Nói tới bút dỏm, mà không nói tới giấy dỏm thì có vẻ hơi thiếu. Giấy vàng khè, còn lộm cộm những bã rơm rạ nghiền chưa kỹ, đè bút mạnh tay một chút để ra chữ, có khi văng cả bi ra ngoài. Tôi còn lưu giữ khoảng vài trăm trang giấy như thế, đó là các báo cáo và bản dịch tài liệu kỹ thuật. Đôi lúc ngậm ngùi khi nhìn lại bút tích của chính mình. Quả là một thời kiên nhẫn không cần thiết.

Không phải khách đi xích lô nào cũng hãm tài như tôi vừa kể ở trên. Khách đàn ông dễ chịu hơn, ít kì kèo. Khách nhi đồng thì miễn trả giá, cỡ nào tôi cũng chạy. Khách hào phóng nhất, mà đôi khi cũng xù tỉnh queo nhất là mấy em đi… khách. Sập tối 6-7 giờ là ra quân, hôm nào trúng mánh thì trả đậm, trật mánh thì hẹn… kiếp sau. Có khách hàng lên xe, buông một câu: “ Anh chở tôi đi đâu loanh quanh cũng được, đi đủ 2 tiếng đồng hồ”. Thời buổi lúc đó, lên voi xuống chó, tình người đẩy đưa, tình đời đen bạc, tâm tư chất chứa đủ chuyện. Người khách im lặng suốt cuốc xe. Tôi chở khách, chở luôn nỗi buồn thời cuộc của họ.

Một buổi sáng chủ nhật, tôi chở bà khách từ chợ An Đông. Bà bao xe nguyên ngày, đi nhiều nơi trong Sài Gòn, mỗi nơi đi vào khoảng nửa tiếng, rồi trở ra đi tiếp. Đi kiểu này thì khỏe, tôi khỏi tốn công cảo xe lòng vòng kiếm khách. Tới nơi, khách đi công chuyện của khách, tôi ngả người lên xe nằm chờ, và lấy sách ra đọc. Chặng cuối cùng, bà yêu cầu đi ra bến xe miền Tây để đón xe đò về Rạch Giá. Có vẻ như đã xong công việc, bà khách ngồi trên xe vui vẻ bắt chuyện:

– Anh đạp xích lô lâu chưa?
– Chừng vài tháng
– Tôi thấy anh đâu có dáng đạp xích lô, mặt mũi như thế phải là người có ăn học.
– Tôi đang kiếm sống bằng nghề đạp xích lô mà.
– Ban nãy tôi thoáng thấy anh đọc truyện tiếng Anh, quyển gì, à… 16 skeletons in closet.

Bà khách này đáo để quá… Tôi im lặng hồi lâu.

– Sao anh không đi?
– Đi đâu?, tôi vờ ngớ ngẩn
– Ở đây khó sống. Bên kia còn thấy tương lai…

Tới bến xe, bà trả tôi gấp đôi số tiền thỏa thuận. “Anh không muốn đi thật sao?”. Tôi lờ mờ hiểu ra công việc của bà sáng nay, “Tôi có hoàn cảnh riêng. Chúc chị đi bằng an”.

Đi vài bước, bà khách chợt quay lại, rút ra trong túi xách quyển sách: “Anh cầm cuốn này mà đọc”. Tôi chưa kịp cám ơn bà đã quầy quả đi ngay vào bến. Đó là quyển tiểu thuyết “Nhịp cầu trên sông Drina” của Ivo Andric.

Sáu tháng đạp xích lô, tôi hiểu ra được nhiều mảng đời, nhiều số phận. Cuộc sống đảo điên và kỳ lạ, một chút tàn nhẫn, một chút thánh thiện, không đơn giản như những gì tôi chúi mũi trong phòng lab.

Trong những ngày gian khổ đó, bên cạnh những mảng tối, vẫn còn đâu đó vài điểm coi được. Thèm miếng thịt, thèm lắm, vậy mà dĩa thịt trong mâm cơm nhiều khi còn đầy, người này nhường người nọ, không ai nỡ gắp. Tuổi trẻ thời nay không hình dung nổi chuyện lẻ tẻ đó.

Thế hệ @ là phải nhanh như điện xẹt, yêu cuồng sống vội. Đối với họ, cuộc sống là hưởng thụ, là đề cao cá nhân, là ứng xử bầy đàn. Chia sẻ cái gu ăn chơi thì được, chứ chia sẻ tấm lòng thì hơi khó. Thanh niên thiếu nữ giành giựt ở hội chợ hoa Hà Nội năm nào chẳng phải là điều đáng suy nghĩ hay sao? Hay báo chí đưa tin, cả ngàn fan nữ thảng thốt vì vẻ đẹp của một ngôi sao Hàn quốc. Cũng chả trách bọn trẻ được, một khi triết lý giáo dục đã không xem con người là cứu cánh, mà chỉ xem con người là phương tiện cho mục tiêu nào đó.

Còn biết bao chuyện để nói. Tóc bạc rồi, không nói bây giờ thì lúc nào sẽ nói đây? Và nói để ai nghe? Bọn trẻ không chừng vừa nghe vừa bấm facebook, twitter, hờ hững với quá khứ. Nói ra không phải để chứng tỏ ta đây đã từng một thời khổ cực, mà đâu chỉ có chuyện cơm áo gạo tiền mới làm mình khổ cực. Còn nhiều thứ khổ khác nữa, khổ tinh thần thì đến giờ vẫn còn phải chịu đựng.

Tôi nhớ câu nói của một người bạn đã khuất núi: “Nghèo thì ăn bắp ăn khoai cũng chịu được, nhưng chịu nhục thì không”. Có cách nào khác không?

Quyển tiểu thuyết để lại, chiếc cầu trên sông Drina được xây từ thế kỷ 16, nối liền Bosnie và Serbie, khi đó Nam Tư còn thuộc đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Kẻ trị vì, viên tể tướng của đế quốc, mang dòng máu của kẻ bị trị đã cho xây chiếc cầu bắc ngang dòng sông ngăn cách đó. Máu và nước mắt, thù hận và nhẫn tâm, biết bao biến cố to nhỏ xảy ra chung quanh cây cầu trải dài suốt 400 năm, từ chiến tranh bệnh dịch cho đến cái chết của một thiếu nữ lao mình xuống sông Drina vào ngày hôn lễ, hay tâm tư của cô chủ quán già Lotika ê chề vì tình đời bạc bẽo.

Rồi chiếc cầu cũng đến ngày kết thúc số phận của nó khi thế chiến thứ nhất bùng phát. Số phận của chiếc cầu và thân phận của con người. Bốn trăm năm có là giấc mộng?

Thằng bạn xích lô bỏ đi từ giữa thập niên 80, từ đó chưa một lần trở về Việt Nam. Ra nước ngoài, nó đi học lại và trở thành chuyên viên máy tính, bỏ lại sau lưng một thời mưa gió và lý sự cùn về triết học hiện sinh, nhưng một thời xích lô chắc chưa đến nỗi quên sạch, mặc dù có thể nó không hình dung nổi xích lô ở Sài Gòn lúc này được trang hoàng lộng lẫy như xe hoa để chở khách du lịch Tây.

Người Đà Lạt nói: “ba chiều, chín chiều”, nghĩa là ba chiều mưa, qua đến chiều thứ tư vẫn còn mưa, thì sẽ mưa thêm 5 chiều nữa. Đà Lạt lúc này đang mưa đến chiều thứ ba rồi, và có lẽ trong những ngày này, mai sẽ còn mưa nữa, mưa cho đủ chín chiều, có khác gì “cửu hồi trường”, chín chiều quặn đau?

Tôi nhìn ra sân vườn, mưa vẫn rơi rả rích. Mưa rơi trên khóm trúc sát bên cửa sổ, rơi từng giọt một, chẳng vội vàng gì. Vậy là 40 năm đã trôi qua, rồi câu chuyện 400 năm chiếc cầu trên sông Drina, và còn biết bao nhiêu chuyện của một thời chưa nói hết. Buồn!

Vũ Thế Thành



Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

Sài Gòn đâu cần nhập tịch

Đã nhiều lần tôi ước mình sinh ra đâu đó ở miền quê, có sông suối, núi đồi, vườn cây hoa lá, để lâu lâu về quê lại có những “đêm buồn tỉnh lẻ”, về Sài Gòn kể chuyện làm quà ra cái điều lãng mạn.

Sinh ra, lớn lên và sống gần hết đời ở cái đất Sài Gòn này mới thấy nó chán phèo. Hồi nhỏ thì chơi tạc lon, đánh đáo, giựt cô hồn… Thả diều không được vì ông già Mười, nhà có xe hơi xách baton rượt, sợ vướng dây điện. Tụi tui lấy kẹo cao su gắn dính vô chuông cổng nhà ổng rồi bỏ chạy. Lớn hơn chút nữa thì chơi bầu cua, cát tê, xập xám,…

Mỗi tối mẹ sai tôi xách thùng rác ra gốc me ngoài đường đổ. Tối cúp điện, tôi vừa xách thùng rác vừa nghêu ngao: “…Đường về hôm nay tối thui, gập ghềnh em không thấy tui, em đụng tui, em nói tui đui…”. Tội nghiệp bản “Kiếp nghèo” của Lam Phương, tôi chỉ cám cảnh a dua hát theo chứ đâu biết sửa lời. Trời nóng, để tạm thùng rác ở gốc me, chạy ra phông- tên nước gần đó, năn nỉ mấy chị ma-ri-sến gánh nước thuê, cho em thò cái đầu vô vòi nước một chút. Mát đầu có sức quậy tiếp.

Xóm nhỏ đôi khi lầy lội. Thỉnh thoảng mấy bà trong xóm cũng cãi nhau ầm ĩ. Hôm sau hai ông chồng lại ngồi khề khà nhậu với nhau, còn mấy bả đon đả tiếp mồi. Cãi nhau là chuyện nhỏ, chuyện hôm qua cho nó qua luôn. Đời sống nghèo ở Sài Gòn là vậy, có gì thơ mộng đâu?

Mà nói thiệt, tôi là dân Bắc kỳ… chín nút. Nhưng đó là chuyện của ba má tôi, dù sau này có về thăm quê nội ngoại tôi vẫn thấy hụt hẫng và hờ hững thế nào ấy. Tôi lớn lên ở Sài Gòn, không khí Sài Gòn, cơm gạo Sài Gòn, đầu Sài Gòn, tim Sài Gòn,… bao nhiêu thứ buồn vui với nó. Trong tôi cứ bám riết cái Sài Gòn chán phèo này, dù đôi lúc mặc cảm mình không phải là dân Sài Gòn.

Hồi 54, cả trăm ngàn dân di cư mang theo đủ loại kiểu sống bó trong lũy tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ. Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xòa đón nhận.

Lúc đầu tụi bạn ghẹo tôi là “thằng Bắc kỳ rau muống”. Con nít đổi giọng nhanh mà, trong nhà giọng Bắc, ra ngoài giọng Nam. Thế là huề hết. Rủ nhau đi oánh lộn phe nhóm là chuyện thường. Khỏi cần biết đúng sai, mày đánh bạn tao, thì tao đánh lại, Oánh lộn tưng bừng. Vài ngày sau lại rủ nhau đi xem xi nê cọp. Dễ giận dễ quên.

Hè, tụi bạn về quê, Bến Lức, Vĩnh Long, Kiến Hòa… cũng chia tay hứa hẹn, tình cảm ra rít: “Tao về quê sẽ mang lên cho mày ổi xá lỵ, xoài tượng…”. Tôi ngóng cổ chờ bạn, chờ quà. Thực ra, tôi thèm có quê để về.

Tết đến, thầy cô, bạn bè về quê, nhiều người Sài Gòn xôn xao về quê. Tôi ở lại Sài Gòn mà thấy hình như mình vẫn không phải là dân Sài Gòn. Vây ai là dân Sài Gòn chính hiệu đây? Chẳng lẽ phải tính từ thời mấy ông Pétrus Ký hay Paulus Của?

Sài Gòn trẻ măng, mới chừng hơn 300 tuổi tính từ thời Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở đây. Sài Gòn khi cắt ra khi nhập vào, to nhỏ tùy lúc. To nhất có lẽ khi nó là huyện Tân Bình, kéo dài đến tận vùng Biên Hòa. Nhỏ nhất là vào thời Pháp mang tên Sài Gòn. Ngay trước 1975, Sài Gòn rộng chừng 70 km2, có 11 quận, từ số 1 đến 11. Hồi đó Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức,.. còn được xem là nhà quê (tỉnh Gia Định). Bây giờ Sài Gòn rộng tới 2.000 km2.

Sài Gòn đắc địa, có cảng nối biển, là đầu mối giao thương quốc tế, tiếp cận với văn minh Tây phương sớm. Đất lành chim đậu. Người miền Nam đổ về nhiều. Dân Sài Gòn không có địa giới rõ rệt. Nói tới họ có vẻ như là nói tới phong cách của dân miền Nam. Họ là những lưu dân, khai phá, hành trang không có bờ rào lũy tre nên tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, nói năng bộc trực… Ai thành đại gia thì cứ là đại gia, ai bán hàng rong thì cứ bán.

Sài Gòn không tự hào mình là người thanh lịch, không khách sáo, không mời lơi. Họ lấy bụng thiệt mà đãi nhau. Sàigòn có mua bán chém chặt? Có, đúng hơn là nói thách. Cứ vô chợ Bến Thành xem mấy bà bán mỹ phẩm, hột xoàn hét giá mát trời ông Địa luôn. Đối tượng nói thách của họ là khách hàng, chứ không cứ gặp khách tỉnh mới nói thách. Dân Sài Gòn lơ mơ cũng mua hớ như thường. Thuận mua vừa bán mà.

Ít nơi nào nhiều hội ái hữu, hội tương tế, hội đồng hương như ở Sài Gòn. Dân tứ xứ về đây lập nghiệp nhiều. Có máu lưu dân trong người, dân Sài Gòn thông cảm đón nhận hết, không ganh tị, không thắc mắc, không kỳ thị. Người ta kỳ thị Sài Gòn, chứ Sài Gòn chẳng kỳ thị ai. Nhiều gia đình người Bắc người Trung ngại dâu ngại rể Sài Gòn, chứ dân Sài Gòn chấp hết, miễn sao ăn ở biết phải quấy là được.

Dân Sài Gòn làm giàu bằng năng lực hơn là quyền lực. Người ta nói “dân chơi Sài Gòn”. Trời đất! Sài Gòn mà “tay chơi” cái nỗi gì. Tay chơi dành cho những đại gia mới giàu lên đột xuất từ đâu đó đến. Đổi đời, Sài Gòn biết sợ. Sài Gòn a dua thì có, nhưng a dua biết chọn lọc. Coi vậy chứ dân Sài Gòn đâu đó còn chút máu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”. Cứ xem dân Sài Gòn làm công tác xã hội thì biết, cứu trợ lũ lụt thấy người ta lạnh quá, cởi áo len đang mặc trên người tặng luôn. Họ làm vì cái bụng nó thế, chứ không phải vì PR, đánh bóng bộ mặt.

Biết bao văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung vào đất Sài Gòn này “quậy” tưng, tạo ra cái gọi là văn học miền Nam hậu 54 coi cũng được quá chứ? Nhạc sĩ Lam Phương, quê Rạch Giá, 10 tuổi đã lưu lạc lên Sài Gòn kiếm sống. Năm 17 tuổi nổi danh với bản “Kiếp nghèo” và khá giả từ đó.

Tiếp cận văn minh phương Tây sớm, nên dân Sài Gòn có thói quen ngả mũ chào khi gặp đám ma, xe hơi không ép xe máy, xe máy không ép người đi bộ, chạy xe lỡ va quẹt vào nhau, giơ tay chào ngỏ ý xin lỗi là huề. Những thói quen này giờ đây đang mất dần, nhưng dân Sài Gòn không đổ thừa cho dân nhập cư. Họ cố gắng duy trì (dù hơi tuyệt vọng) để người mới đến bắt chước vì lợi ích chung. Chợ hoa là một chút văn hóa của Sài Gòn, có cả nửa thế kỷ nay rồi, có dân nhập cư nào “yêu” hoa mà ra đó cướp giựt hoa đâu.

Sài Gòn nhỏ tuổi nhiều tên, nhưng dù thế nào Sài Gòn vẫn là Sài Gòn. Nhiều người thành danh từ mảnh đất Sài Gòn này. Sài Gòn nhớ không hết, nhưng mấy ai nhớ đến chút tình của Sài Gòn? May ra những người xa Sài Gòn còn chút gì nhức nhối. Tôi có người bạn Bắc kỳ chín nút, xa Việt Nam cũng gần 40 năm. Tên này một đi không trở lại, vừa rồi phone về nói chuyện lăn tăn, rồi chợt hỏi: “ Sài Gòn còn mưa không?”. “Đang mưa”. Đầu phone bên kia thở dài: “Tao nhớ Sài Gòn chết… mẹ!”. Sài Gòn nay buồn mai quên, nhưng cũng có nỗi buồn chẳng dễ gì quên.

Mới đây đi trong con hẻm lầy lội ở Khánh Hội, chợt nghe bài hát “Kiếp nghèo” vọng ra từ quán cà phê cóc ven đường. Tôi ghé vào gọi ly cà phê. Giọng Thanh Thúy sao da diết quá: “Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gởi theo gió sương…”. Chủ quán, ngoài 60 cầm chồng báo cũ thẩy nhẹ lên bàn “Thầy hai đọc báo…”. Hai tiếng “thầy hai” nghe quen quen… Tự nhiên tôi thấy lòng ấm lại. Sài Gòn từ tâm, Sài Gòn bao dung. Tôi chợt hiểu ra, mình đã là người Sài Gòn từ thưở bào thai rồi, cần gì xin nhập tịch.

Vũ Thế Thành




Thứ Năm, 13 tháng 8, 2015

Sài Gòn thật quá đỗi Sài Gòn

"Sài Gòn thật quá đỗi Sài Gòn. Có những góc đời dễ thương, có những người trẻ dễ mến và cũng chẳng thiếu người thân thể lành lặn mà tâm hồn khuyết tật". Bạn đọc Hoàng Mỹ Uyên, chia sẻ:

Sáng con bạn réo liên hồi trên fb, nó biểu đi kiếm anh đánh giầy câm và con chó mù cho nó… Chạy xuống thì chỉ thấy anh đang đi lơn tơn, hỏi "ủa có anh thôi hả? Con chó đâu rồi?" Ảnh quắc quắc dẫn đi tới 1 chút. Cậu nhỏ 1 tháng tuổi bị mù đang ngủ say sưa trong bộ áo có lẽ là mới được tặng.

Hỏi anh ăn cơm chưa? Anh kêu ăn rồi, đi ngang tủ bánh ướt, chị bán bánh réo "ê thằng kia, không trả sáu chục tao bắt con chó của mày nhe mày". Anh không nói gì, ra dấu cho tui ngồi chơi với con chó, anh lấy cái bóp ra, lấy 100.000 đem đi trả cho chị. Bóp có hai ba tờ 100 gì đó. Anh khoe tui tờ tiền nước nào đó, cười tươi rồi cất.

Hỏi thăm cánh tay phải không sử dụng được, thì anh đưa 5 ngón tay lên và gật đầu khi tui bảo "5 năm rồi?" Hỏi vì sao thì anh đưa nắm đấm, không hiểu do quánh lộn hay gì. Bảo anh "bạn em muốn phụ anh nhưng sợ anh bọc tiền trong người, nguy hiểm. Bạn ấy trả hết tiền cơm tháng chỗ anh hay ăn rồi cứ mỗi ngày tới đó ăn nhe được hông?" Anh lắc đầu, "body language" ý là đi suốt trên đường, thấy đâu ăn đó. Mỗi bữa ăn hai mươi lăm ngàn, một ngày kiếm được cỡ 100.000

Câu chuyện đang nói thì mấy bạn ở nhà hàng gần đó lớn tiếng nói qua

- Hey, bốn triệu bán con chó không?

Anh lắc đầu nguầy nguậy.

- Giá chót năm triệu?

Anh nhăn nhó bực mình cúi đầu hút thuốc không cười nữa.

- Nó mù, mà mình không nuôi được để người ta nuôi người ta chữa cho nó không tốt à.

Anh quay qua tui, diễn tả là 1 tháng trước nó bị vứt gần đây, anh lượm nuôi, nó rất thích anh. Xong anh dẫn tui lại coi cái giỏ. Anh cho coi mấy bịch sữa tươi, hủ sữa chua giang dỡ anh lấy nilong sạch đậy lại. Anh kéo tiếp ra 2 hộp thức ăn khoe và vẻ như khẳng định là anh nuôi được. Anh nói mọi người thấy đều thích nó nên hay cho sữa nó uống.

Tui chỉ anh cái quán và bảo quán có buồng tắm, anh có muốn ngày ngày ghé qua tắm rửa không? Em có một ít quần áo đàn ông, em tặng anh. Mỗi ngày lên đó ăn cơm, em tính 10.000 thôi, nha. Em hông có cho, em nấu cơm nhà, cho rẻ, nha? Anh cũng nhứt định không chịu.

Trong lúc ngồi chơi với anh thấy nhiều bạn gái trai chạy qua gửi anh tiền mua sữa cho con chó. Mỗi người trăm ngàn. Mấy bạn gặp được anh thấy mừng ra mặt. Có cô trung niên đi qua buông câu "giờ coi bộ khỏi đánh giầy cũng có tiền rồi". Tui buộc miệng "chị không nói người ta cũng không nói chị câm chị gái à". Chị ấy bĩu môi rồi đi.

Mặt anh lại buồn và có cả giận. Cậu nhỏ thức giấc chạy lon ton, anh cười rạng rỡ khoái chí nựng cậu nhóc nhỏ.

Tui đi ra một góc gọi cho bạn. Bạn hỏi tui "giờ sao? Giúp anh như thế nào? Cho tiền thì sợ anh nguy hiểm vì giờ nhiều người tìm anh. Làm gì bây giờ?"

Tui cúp điện thoại, hỏi lịch đi lại của anh mỗi ngày để an tâm mai anh sẽ lại qua đây. Tuy nhiên, câu hỏi của bạn gọi về vẫn chưa nghĩ ra. Sài Gòn thật quá đỗi Sài Gòn. Có những góc đời dễ thương, có những người trẻ dễ mến và cũng chẳng thiếu người thân thể lành lặn mà tâm hồn khuyết tật.

Hoàng Mỹ Uyên


Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2015

Ba tôi, người đánh máy mướn

Năm 1961, thằng em thứ sáu, vừa lên 5 của tôi, bị viêm màng não rồi chết. Thân phụ tôi đang làm trưởng ty Bưu Ðiện Rạch Giá buồn bã quá, xin đổi về Sài Gòn làm ở Bưu Ðiện Trung Tâm gần Vương Cung Thánh Ðường, dắt cả gia đình chạy trốn một kỷ niệm buồn đau!

Nhà thì chính phủ cho một căn, ở lầu hai cư xá Bưu Ðiện trên đường Hai Bà Trưng, nằm trong con hẻm lớn, đối diện nhà thờ Tân Ðịnh.

Rồi năm 63, cuộc đảo chánh 1/11 của các tướng lãnh. Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và bào đệ là Cố Vấn Ngô Ðình Nhu bị giết. Cái chết của Tổng Thống Diệm đã chấm dứt luôn cuộc sống tương đối dễ thở của các công chức bậc trung. Nhà đông con, vật giá càng lúc càng tăng, con cái ngày một lớn, tiền ăn tiền quần áo tiền trường đè nặng lên vai Ba. Nên Ba phải làm thêm nghề tay trái nữa: Ðánh máy mướn!

Vốn xuất thân từ thư ký, sau vừa làm vừa học, thi đậu cải ngạch thành Cán Sự Bưu Ðiện, Ba đánh máy rất nghề, chỉ nhìn vào văn bản mà không cần nhìn vào bàn phím chữ. Ðánh bằng mười ngón, tốc độ nhanh, nghe như tiếng rào rào đổ trên mái tôn. Mưa!

Cuối đường Phan Ðình Phùng, đi về phía Chợ Lớn rồi quẹo tay phải sang đường Lý Thái Tổ có rất nhiều tiệm Ronéo. Trong tiệm, ngoài giàn máy Ronéo, còn có vài cái máy đánh chữ, bàn ghế ngồi do chủ tiệm cung cấp. Làm ăn chia, tứ lục, 6/4.

Muốn in Ronéo, phải đánh trên giấy stencil. Ðó là loại giấy có tráng sáp để khi đánh, chữ sẽ khắc dấu trên sáp; rồi khi đưa vào máy, mực sẽ tràn ra phủ đầy trên những dấu lõm. Dán stencil vào máy, rồi quay bằng tay hay bằng điện. Bài viết sẽ lần lượt được in ra.

Khách hàng đến là các giáo sư mướn đánh máy bài giảng ở trường đại học, bán “cours” (giáo trình) cho sinh viên. Khách hàng cũng có thể là các nhà văn chuyên viết truyện dài đăng trên báo hằng ngày mà Miền Nam lúc bấy giờ gọi là viết “feuilleton” như Dương Hà, An Khê, Ngọc Linh, Sơn Nam… Họ mang những bản thảo viết tay, thường là khó đọc, đến mướn đánh máy cho rõ ràng để thợ sắp chữ nhà in dễ đọc, dễ sắp chữ trên bản kẽm rồi in ra thành tiểu thuyết. Giá cả có khác nhau tùy theo khách hàng thường xuyên như các giáo sư hay các nhà văn. Ngoài ra cũng có nhận đánh đơn từ các loại.

Mỗi ngày, Ba cỡi chiếc xe đạp đòn dông đi làm theo giờ hành chánh từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Tan sở lại phải chạy xuống tiệm Toàn Thắng ở cuối đường Phan Ðình Phùng để làm cái “job” (việc làm) thứ hai. Khoảng 9, 10 giờ đêm, mệt mỏi, rã rời sau 16 tiếng đồng hồ làm việc, Ba mới theo đường Phan Thanh Giản, chỉ cho chạy một chiều để quay trở về Hai Bà Trưng, Tân Ðịnh. Má vẫn thường chờ Ba cơm tối; còn 8 anh em tôi thì đã đi ngủ mất rồi.

Hôm nào được lãnh lương hoặc đánh máy có tiền nhiều, Ba vẫn thường ghé qua xe bán bánh mì Tám Cẩu ở ngã tư Cao Thắng và Phan Thanh Giản, gần rạp hát Ðại Ðồng, mua vài ổ bánh mì về cho con. Về nhà Ba vô giường, bế từng đứa dậy, đặt ngồi ngoài bàn rồi bảo: “Ăn đi con!” Ăn thì khoái thiệt nhưng “buồn ngủ” híp con mắt luôn! Em gái tôi cắn miếng bán mì nhai, chưa kịp nuốt thì gục xuống bàn… ngủ tiếp. Ba lại bế từng đứa, cho vào giường ngủ.

Người ta thường bảo người mẹ như cánh cò. Cánh cò lặn lội bờ sông… Ba tôi không phải là cánh cò, Ba tôi là đại bàng nhưng con đông quá, bám vào đôi cánh của Ba nặng trĩu. Ba không bay cao, bay xa được mà chỉ bay là đà; nhưng vẫn phải rán mà bay để tìm mồi về cho vợ và con trong thời khốn khó! Ba chưa từng bao giờ từ bỏ ước vọng là con mình sẽ được ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn để cuộc đời chúng nó sau không phải vất vả như Ba!

Bước ra đời, nếu mình có thành công, có giỏi hơn người khác thường là bị gièm pha, xúc xiểm, ganh tị… nhưng mỗi thành công dù rất nhỏ trên trường đời của con thì Ba lại tự hào, hãnh diện coi thành công đó là rất lớn và là chính của Ba luôn!

Năm 63, tôi thi đậu vào Petrus Ký. Ðỡ cho Ba không phải lo tiền trường. Vì nếu rớt, phải đi học tư, tốn lắm! Việt Nam lúc đó đậu vào một trường công lập nổi tiếng như Petrus Trương Vĩnh Ký cho con trai hay Gia Long cho con gái là rất khó. Trường rất có kỷ luật nên học trò trường công không dám “cúp cua” đi chơi nên thường học giỏi hơn học trò trường tư dù giáo sư trường tư lại nổi tiếng dạy hay hơn: Dạy hay hơn nên mới được chủ trường tư mời dạy!

Ngày coi kết quả thi vào Petrus Ký, trời đổ trận mưa to. Thầy Trường dạy luyện thi đệ thất, có danh sách học trò thi đậu, báo tin vui. Ba nhường áo mưa cho con, còn mình đội mưa đến. Thầy và Ba bắt tay nhau, hỉ hả cười rạng rỡ, dù nước mưa còn chảy ròng ròng trên má. Tôi thấy thương Ba quá trời. Sao mà khổ dữ vậy!

Tôi thấy đậu vô đệ thất, cho dù là của một trường trung học nổi tiếng nhứt miền Nam đi chăng nữa thì có gì là… lớn lao lắm đâu! Mấy thằng bạn học chung với tôi cũng thi đậu đó thôi. Rồi khi thi đậu tú tài một, tú tài hai, Ba cũng mừng như chính Ba thi đậu vậy!

Khi vào đại học, Ba muốn con học Luật Khoa để trở thành luật sư chẳng hạn… Có lẽ đường hoạn lộ công danh của Ba đã từng bị xui xẻ, bị đối xử bất công quá hay chăng mà Ba không muốn con mình phải gánh chịu: Phải biết Luật để cho tụi nó sợ mà không dám áp bức lại mình?

Tôi thì thấy những chồng “cours” là đã “ớn.” Lại phải tốn rất nhiều tiền để mua nên không muốn đi học Luật; dù trường đó, trên con đường Duy Tân, thơ mộng và có biết bao nhiêu là con gái, tiểu thơ con nhà giàu chưng diện, ẹo tới, ẹo lui… Ba nói một, hai lần thì tôi vẫn giả bộ tảng lờ. Nhưng lần thứ ba thì con Ba, cái thằng bất hiếu, cứng đầu cãi lại: “Con là con ếch mà Ba muốn con to bằng con bò! Không được đâu!”.

Tôi đã nhẫn tâm làm tan nát niềm ước vọng của Ba tôi rồi; mà tôi cứ “thản nhiên” như không. Trời ạ!

Sau nầy vào Ðại Học Sư Phạm ra trường, đi dạy, một hôm Ba nói: “Thôi không làm luật sư, làm giáo sư cũng được!” Dù tôi chỉ là Giáo Sư Trung Học Ðệ Nhứt Cấp “quèn” mà thôi!

Rồi 75 đến, nước mất nhưng nhà tôi nhứt định không tan. Cũng sống lầm than mà cũng không nghe Ba một tiếng thở than: Ði tù cải tạo sáu tháng vì là viên chức ngụy quyền, cấp trưởng ty. Trong tù, Ba tôi vẫn ăn mặc một cách đàng hoàng, tề chỉnh. Ðêm trong trại, Ba xếp quần áo lại, lót dưới gối trên đầu nằm cho thẳng thớm. Sáng ra, mặc áo bỏ vô quần, mang giày như thuở còn đi làm; dù mấy thằng cán bộ nhiều lần mỉa mai, phê bình Ba là còn giữ tác phong “tiểu tư sản”! Ba chỉ nói: “Mình mất nước chớ không mất tư cách!”

Ra tù, Ba lại trở về Sài Gòn, ra Lý Thái Tổ ngồi đánh máy mướn để nuôi đàn con: đứa thì đi tù vì là sĩ quan Ngụy, đứa thì bị đuổi! Ba vẫn ăn mặc rất đàng hoàng, vẫn áo trắng bỏ vô quần, vẫn mang giày, dù cũ, ra đánh máy mướn, làm đơn cho bà con cô bác Sài Gòn đi thăm nuôi chồng, con đang ở tù cải tạo. Cuộc sống cực kỳ khốn khó mà Ba vẫn không than van; vẫn không phiền trách ai đã làm cho mình mất nước!

Bà con ở Hố Nai, có thời đi lính Liên Hiệp Pháp, xuống nhờ Ba đánh đơn gởi Tổng Thống Francois Mitterrand để xin đi định cư. Là người học chương trình Pháp, Ba viết thơ giùm họ cảm động làm sao đến nỗi ông chánh văn phòng của tổng thống hồi đáp ngay, rồi Ba dịch ra tiếng Việt cho bà con nghe là: “Tổng Thống Cộng Hòa Pháp đã nhận được thơ ông và đã chỉ thị chuyển hồ sơ qua Bộ Ngoại Giao để hoàn tất tiếp hồ sơ!”. Sau đó cũng có vài gia đình được đi Pháp định cư.

Có lần ông chủ một cây xăng ở Rạch Giá bị đánh tư sản, bị đuổi đi vùng kinh tế. Khổ quá, ông trốn về Sài Gòn và gặp lại Ba. Ông vẫn còn gọi Ba là ông trưởng ty như ngày cũ! Ông nói vì không có hộ khẩu nên không làm được thông hành và chiếu khán nhập cảnh Hoa Kỳ; dù con ông đã gởi đơn về bảo lãnh. Ba lại giúp ông làm đơn gởi cho bọn công an, bộ phận xuất nhập cảnh ở đường Nguyễn Trãi Chợ Lớn và Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thailand. Ðơn thành công và ông được ra đi! Bùi ngùi từ giã, ông nói: “Tôi đi rồi, không biết chừng nào mới có dịp gặp lại ông trưởng ty.” Rồi rưng rưng nước mắt, bắt tay chào vĩnh biệt!

Ðọc sử thế giới, tôi nhớ rằng Raoul Wallenberg (1912-1947), nhà ngoại giao Thụy Ðiển, đã cứu hàng chục ngàn người Do Thái ở Hungary thoát khỏi Holocaust, lò hơi ngạt của Phát Xít Hitler trong Thế chiến thứ hai. Ông đã cấp những thông hành bảo vệ (Schutz-Pass) và cho những người Do Thái ẩn náu trong những tòa nhà thuộc tòa đại sứ Thụy Ðiển ở hải ngoại. Ngày 17 tháng 1, 1945, Hồng quân Cộng Sản Liên Xô tiến vào Budapest, Hungary bắt ông giam cầm và ông chết ngày 17 tháng 7, 1947 trong nhà tù Lubyanka ở Moskva. Trái tim vĩ đại của một con người nhân hậu đã mãi mãi thôi đập nữa!

Chủ Nghĩa Phát Xít và Chủ Nghĩa Cộng Sản đều tàn ác như nhau. Chính bọn chúng đã giết đi những người nhân hậu!

Dĩ nhiên thân phụ tôi không thể cứu được nhiều nạn nhân như ông Raoul Wallenberg đã từng làm; nhưng chí ít Ba tôi cũng đã giúp được một số người, dù con số đó rất nhỏ nhoi, vượt thoát khỏi gông cùm cộng sản. Chỉ có một trái tim nhân đạo mới dám làm được như thế! Ba từng nói: “Giúp được ai, dù là chuyện nhỏ, để làm cho họ bớt thống khổ hơn là điều phải làm con ơi!”

Năm 81, thằng em thứ 5 của tôi liều chết vượt biên đến được Pulau Bidong, Mã Lai. Về Adelaide, Nam Úc định cư, nó lần lượt bảo lãnh Ba và các anh em qua. Cuối cùng cả gia đình đoàn tụ!

Ðêm nay, ngồi trước bàn phím computer, viết bài này do anh Hoàng Ðịnh Nam, báo Trẻ Garland Texas đặt bài, nhân Father’s Day bên Mỹ, tôi lại nhớ đến cái bàn máy đánh chữ của Ba. Nhớ mười ngón tay xương xẩu, cong vòng của Ba gõ trên bàn đánh máy mà ngày xưa người ta thường cảnh báo về già sẽ bị đau tim mà chết. Nhưng Ba không sợ! Mười ngón tay đó của Ba đã nuôi anh em con ăn học, đủ để sống sót và làm lại cuộc đời nơi đất lạ quê người. Tụi con xin cảm ơn Ba!

Ba bỏ tụi con đi, năm nay nữa là 15 năm chẵn. Tiếng gõ trên bàn máy chữ vẫn rào rào như tiếng mưa rơi… vẫn còn vang động đâu đây! Nhớ và thương vô cùng cái dáng của Ba còng lưng trên xe đạp trong những ngày ngược gió. Nhớ bánh mì Tám Cẩu Ba mua; mà đút vào miệng chưa kịp nhai tụi con đã gục đầu xuống bàn… mà ngủ tiếp. Nhớ cái bắt tay của Ba với thầy Trường ngày con đậu vào đệ thất.

Người ta cần tới Father’s Day, Chúa Nhựt, tuần lễ thứ ba của Tháng Sáu như ở Hoa Kỳ hay Chúa Nhựt, tuần lễ thứ nhứt của Tháng Chín ở Úc để kỷ niệm ngày từ phụ, để nhớ tới phụ thân!

Còn con, con nhớ Ba mỗi ngày, khi còn sống… Và cho đến lúc nào đó con sẽ được gặp lại Ba!

Đoàn Xuân Thu


Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Sài Gòn, chuyện kể xe ôm



(ba câu chuyện chép lại từ ba ông xe ôm Sài Gòn)


Một bài viết về người Sài Gòn, đọc mà thấy rớt nước mắt. Ừ, thì "tui chạy xe nào giờ chớ chưa ai xù tiền xe, có người hồi xưa đi mối, thiếu có một cuốc xe mà lúc qua Mỹ gửi tiền về trả đàng hoàng. Nghĩ cũng vui, người ta nhớ mình, ngoài chuyện cơm áo cũng có chút tình nghĩa, phải hôn chú?"
...

1.

Tui chạy xe ôm đây gần hai chục năm, chỉ đứng một chỗ này, nắng cũng như mưa. Xưa lúc tui mới ra nghề thì nguyên góc này của Sài Gòn chỉ chừng chục xe, mấy năm rồi cao điểm tui đếm được gần năm chục xe, bây giờ cũng nhiều mà chắc hổng tới số đó.

Cạnh tranh hả, có gì mà cạnh tranh chú ơi, toàn dân nghèo mới ra đây chạy xe ôm, mình mới có khách đi rồi thì mình nhường cho thằng khác, coi thằng nào chưa có mối hay nhà gặp khó thì nhường nó vài cuốc, nói chung đông heo thì nhiều cám, cũng chưa ai đói bởi nghề này.

Nhà tui nhỏ xíu, nằm trong cái hẻm cũng nhỏ xíu mà sắp bị giải tỏa rồi, theo diện đền bù thì tui được hơn bảy trăm triệu, tính đi kiếm miếng đất xa xa mua cái nhà ở mà chưa được. Bởi phường mới chi được có một trăm, phần còn lại đang hẹn mà chưa thấy. Một trăm triệu tui nhận tui cho cha kia mượn kìa, đó cha xe ôm ngay góc bên kia kìa, cha già dịch, cho chả mượn chớ không biết tời đời con đời cháu chả trả nổi hông nữa.

À, chuyện là chả có đứa con gái, học chung với thằng lớn tui đó, tội nghiệp con nhỏ thông minh mà dễ thương lắm nha, mà xui cái nó bị bịnh tim, hôm rồi phải vô viện, người ta nói phải mổ hết hơn trăm triệu. Chả nghe xong chả chết đứng, nhà chả nghèo quá mà, tiền đâu mổ, xếp hàng đợi hội từ thiện thì chắc con nhỏ chết khô luôn rồi.

Chả vay mượn tùm lum, rồi anh em góp một mớ cũng chỉ được ba chục triệu, còn thiếu một trăm triệu tui đưa chả luôn. Anh em không mà, không lẽ mình thấy chết hổng cứu, mà biết tiền đưa cho chả thì coi như xong phim, chờ chả độc đắc mới may ra thấy lại.

Ôi mà thây cha nó, tiền bạc không có thì thôi chớ ông nghĩ coi mình nhìn đứa nhỏ chết sao đặng. Ông nghĩ coi phải hôn?

2.

Chú em có phải hay chạy chiếc xe hơi màu đỏ hông, sao nay đi xe ôm vậy? Ờ, nhiều khi đi xe ôm hay lắm chớ, nghề này nắng mưa cực nhưng mà cũng thấy vui, gặp đủ hạng người. Mình nghèo chạy xe ôm vậy chớ cũng còn sướng nghe chú, tui gặp cũng nhiều người còn nghèo, còn khổ hơn mình nữa.

Nhà tui Hóc Môn lận, nhưng mà chạy ở đây quen rồi, bị trước nhà ở đây, ngay cái hẻm hồi nãy tui đón chú đó, mấy năm nhà được giá tui bán rồi, bán cái nhà nát ở Sài Gòn mà mua được bốn cái nhà mới ở Hóc Môn, cho hai đứa con ra riêng. Tui hả, tui ba đứa mà một đứa bịnh chết hồi nhỏ rồi. Hai vợ chồng tui ở một căn, hai đứa con mỗi đứa một căn, còn một căn cho mướn, tháng hai triệu.

Hỏi mới nói, hai vợ chồng mà mướn nhà tui đó, nói mướn chớ tụi nó thiếu tiền nhà hơn năm rồi, có trả nổi đâu, Hai vợ chồng đó trước làm công nhân, sanh được đứa con dễ thương quá xá, suốt ngày qua nhà tui ăn cơm, kêu ông ngoại bà ngoại thấy ghét lắm. Tự nhiên năm rồi thằng nhỏ phát bịnh, bịnh gan. Hai vợ chồng có nhiêu tiền lo thuốc thang cho thằng nhỏ hết, tụi nó còn ăn mì gói qua bữa mà, đâu còn tiền trả tiền nhà cho tui. Mà tội nghiệp quá, không lẽ đuổi nó ra đường.

Ờ, thằng chồng nghỉ việc ra chạy xe ôm luôn rồi, chạy ngang cửa công ty nó luôn. Thằng nhỏ con tụi nó bữa nay cũng đỡ rồi, có bảo hiểm y tế nên bớt đóng tiền như hồi xưa. Nó cứ nói chú thông cảm để ít bữa tụi con gom đủ tiền con trả tiền nhà chú nguyên năm, tui nói thôi khỏi, coi như năm rồi tao cho bây ở đậu, năm nay mới thu tiền.

3.

Nghề xe ôm hả, đâu có ai chọn cái nghề hạ bạc này, nắng mưa cực khổ lắm, ngày tết ngày lễ còn khá chớ ngày thường kiếm trăm ngàn bạc là vui rồi. Ờ, vậy mà có đứa còn đi cướp của xe ôm chớ, thiệt thất đức quá xá, chắc tụi xì ke xì cọt tới cữ làm liều, chớ ai đâu mà cướp của xe ôm, cướp nó cũng có thằng này thằng khác.

Mà nói vậy chớ hông phải vậy nghe chú, tối hôm bữa tui chở một thằng đi Bình Dương, mặt nó lấm lét tay cầm cái túi đen, tui thấy hơi gian mà lỡ đi rồi biết sao. Trên đường tui cũng nói chuyện này chuyện kia, chuyện cha mẹ, chuyện quả báo này nọ. Mình cũng không phải hay nhưng mà mình già rồi, chuyện sống ở đời sao cho phải thì tui cũng nói được, mới đầu tui nghe nó ậm ừ, một hồi nọ bắt đầu dạ dạ, một hồi nữa thì nó biểu tui quay về.

Tui chở nó về Thanh Đa, nó biểu tui chờ nó vô nhà người quen trong chung cư, rồi nó xin số điện thoại nói có gì lát gọi. Nó đi vô một hồi rồi nó nhắn tin, cái tin nhắn tui còn lưu trong máy nè chú. Nó nhắn nói hồi nãy tính cướp xe chú, mà nghe chú nói chuyện nên đổi ý, nó xin lỗi, hứa bữa nào có tiền quay lại trả tiền cuốc xe. Lát tui lấy tin cho chú coi, mình nói phải thì thằng ăn cướp cũng nghe. Nhiều người biểu tui báo công an, tui nghĩ thôi, nó nghĩ lại rồi mình làm vậy coi hông được.

Mà lạ nghe chú, tui chạy xe nào giờ chớ chưa ai xù tiền xe, có người hồi xưa đi mối, thiếu có một cuốc xe mà lúc qua Mỹ gửi tiền về trả đàng hoàng. Nghĩ cũng vui, người ta nhớ mình, ngoài chuyện cơm áo cũng có chút tình nghĩa, phải hôn chú?

Đàm Hà Phú


Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Dân trí mình đúng thấp thật, cảm ơn Đảng và Nhà nước!

Câu nói của ông đại biểu: “Dân trí nước ta còn thấp.” Bị người dân, chủ yếu dân mạng phản đối ầm ĩ. Còn lại đa phần số đông, những người dân, người lao động không bao giờ online thì chẳng biết, chẳng bận tâm.

Mà cho dù có biết đi chăng nữa thì cũng kệ vì chả thấy liên quan gì tới mình. Đấy, mình bị cái đứa mình nuôi nó chửi thẳng mặt là ngu mà cũng không biết, không quan tâm, thì thử hỏi mình có ngu thật hay không?

Chưa kể,

Dân trí cao cỡ nào khi mà ngoại trừ những người quan tâm chính trị ra thì còn mấy ai biết cụ thể công việc, trách nhiệm của những chức danh như Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban Nhân Dân, Ủy ban mặt trận Tổ Quốc… là cái gì? Họ làm những công việc gì? Trách nhiệm của họ đến đâu?

Tại sao ông Đại Tướng chẳng bao giờ thấy mặt mũi trên các thông tin chiến trận ngoại trừ có mặt ở một vài cuộc họp vớ vẩn với ngoại bang? Tại sao những vụ doanh nghiệp Nhà Nước thua lỗ động trời không một ai phải đứng ra chịu trách nhiệm hay nói một lời xin lỗi?

Dân mù tịt không biết đâu mà lần, thậm chí cũng là không quan tâm chút nào hết. Thế thì hỏi có là ngu không? Ngu vì không được dạy hay ngu vì không biết tự tìm hiểu hay ngu vì tìm hiểu mãi cũng không ra… Dù cho là ngu vì bất cứ lý do gì thì vẫn là ngu. Ngu thì là dân trí thấp. Đúng quá rồi còn gì.

Dân trí có cao không khi đa phần người dân không hề muốn nghe muốn nói đến chuyện chính trị vì cho rằng nó không liên quan tới cuộc sống của mình. Không hề biết rằng chuyện chính trị chính là quyền của mình để lập ra một chính phủ có trách nhiệm chăm lo cho đời sống của mình.

Chính trị chính là nội dung giáo dục con cái mình nên người. Chính trị chính là niềm tự hào dân tộc của dân mình khi bước ra khỏi đất nước. Chính trị chính là liều thuốc con mình tiêm vào người, là con đường mình đi, là hàng hóa mình tiêu thụ, là không khí mình hít thở, là sức khỏe của chính mình và gia đình mình?

Tách rời chính trị khỏi cuộc sống và trách nhiệm của bản thân trong khi nó ảnh hưởng sâu sắc và gắn liền mật thiết đến nhau. Cho rằng nó thì không liên quan đến mình, mình thì không làm gì được nó, thì thử hỏi có ngu không, có dân trí thấp không?

Dân trí cao cỡ nào mà để cho Trung Quốc nó ngang nhiên chiếm đảo chiếm đất xây dựng sân bay, công trình mà vẫn im lặng không nói một lời.

Dân trí cao chắc chắn sẽ phải biết biểu tình và giữ im lặng khi bị bắt là hai trong những quyền cơ bản nhất của con người trên bất cứ vùng đất văn minh nào.

Dân trí cao thì đâu thể im lặng đi trên những cây cầu mới xây đã sập, bê tông cốt tre, đường cao tốc sóng trâu, công trình trăm ngàn tỷ vừa khánh thành đã hư hỏng, đập nước bờ kè mưa một trận đã sụt lún…

Dân trí cao thì nỡ nào mà để người dân mình tự lừa đảo người mình, tự đầu độc dân mình, tự làm hại đồng bào mình. Giúp người ta tiêu thụ hóa chất độc hại, nông sản độc hại còn nông sản của dân mình thì phải đổ bỏ đi vì thừa mứa và rẻ mạt.

Dân trí cao thì sao để chính quyền tự ý lấy thuế xây cái miếu vài trăm tỷ thờ một ông học giả ngoại bang rồi còn trơ trẽn tuyên bố xây thế thôi chứ chưa quyết định thờ ai. Hẳn là chính quyền dư nhiều tiền lắm. Nhưng dư tiền sao lại phải đi vay Trung Quốc tiền xây cái đường tàu cao tốc để rồi bị họ chèn ép. Dư tiền sao lại phải đi vay viện trợ bảo vệ môi trường trong khi tiền phí bảo vệ môi trường thì tận thu từ trong giá xăng giá điện?

Dân trí cao thì sao mà có mấy chuyện hy hữu cười ra nước mắt rằng cuộc sống của ta là hạnh phúc nhất, yên bình nhất.

Dân trí cao làm sao chịu nổi khi chính quyền làm được một việc nhỏ thì bắt dân mang ơn, tạc tượng. Còn khi chính quyền làm sai những việc tày đình thì không cần xin lỗi, từ chức, chịu trách nhiệm, chỉ cần rút kinh nghiệm là xong?

Dân trí cao thì hẳn đã chẳng phải xấu hổ khi dân ta ra nước ngoài mang bao tiếng xấu, trộm cắp, mại dâm, vô ý thức vô văn hóa.

Nếu dân trí mà có cao thì phụ nữ Việt đã chẳng phải lũ lượt ra nước ngoài bán dâm, bị mua làm vợ, bị hành hạ, bị xúc phạm. Người dân Việt đã chẳng phải qua Cam, qua Lào làm giúp việc, lao động nặng nhọc, chui nhủi.

Nếu dân trí mà không thấp thì hàng trăm ngàn sinh viên thạc sĩ tiến sĩ ra trường hẳn đã phải có công ăn việc làm, có những đồ án, công trình giúp ích cho cộng đồng chứ không xếp hàng dài thất nghiệp ăn bám gia đình xã hội.

Nếu dân trí cao thì hẳn phải biết đất nước đã đi thụt lùi thế nào sau những năm tháng “giải phóng”. Từ một nước tự sản xuất được xe hơi nội địa thành một nước không sản xuất được con ốc con vít. Từ một nước được miễn phí học hành, y tế biến thành có nhiều tiền cũng chưa chắc có được môi trường học hành, y tế đủ tốt. Từ một nước được bao nước thèm muốn, ước ao trở thành một nước bị xem thường.

Nếu dân trí cao hẳn đã phải nhận ra những mâu thuẫn, nhìn thấy những sự thật đang được giấu kín thay vì nói gì biết đấy, kêu gì làm đấy.

Nếu dân trí cao liệu có để cho các ngài lãnh đạo xem như trò hề, muốn làm gì thì làm, muốn chặt cây thì chặt, hứa một đằng làm một nẻo, muốn thay cây gì thì thay, muốn bán đất cho ai, bán tài nguyên cho ai, cho ai thuê đất bao lâu thì cho.

Nếu dân trí cao hẳn không thể để mặc cho những người được mình ủy quyền lộng hành tác oai tác quái. Sâu mọt khắp nơi từ trung ương đến địa phương, từ trong ra ngoài, từ lớn đến bé, từ xưa đến nay mà không một động thái ngăn cản.

Nếu dân trí cao người ta hẳn sẽ phải thích đọc sách hơn xem truyền hình, thích nghiên cứu tìm hiểu hơn là đọc tin tức giải trí. Nhưng xem kìa, Việt Nam là một trong những nước đọc sách ít nhất thế giới.

Nếu dân trí cao thì hẳn sẽ không cười xòa khi đọc tin tức “Cá mập cắn đứt cáp” “Nhím gà dê hỗ trợ nông dân đi lạc vào nhà bí thư, chủ tịch”.

Nếu dân trí cao hẳn người dân phải biết hợp sức lại, biết cất tiếng nói của mình, biết liên kết với nhau tạo nên sức mạnh.

Và quan trọng nhất, nếu dân trí cao thì người dân chắc chắn phải biết chuyện gì đang xảy ra với đất nước mình, với dân tộc mình.

Đấy, xin mời các bạn xem lại, tự vấn lại bản thân một chút. Rằng so với một vài biểu hiện của dân trí cao như trên, thì tự xem dân trí của mình có cao không? Nếu có, thì xem tiếp, xung quanh mình có bao nhiêu người có dân trí cao giống mình trên tổng số người mình quen biết và tiếp xúc hàng ngày? Còn nếu không, thì thôi, ông đại biểu nói đúng, dân trí mình thấp thật, nói thẳng tuột, mình thật là ngu, dân mình cũng ngu, rất ngu, đấy là sự thật không còn nghi ngờ và bàn cãi gì nữa.

Ấy thế thì, thay vì phản bác và chê trách ông đại biểu, người dám nói dân trí ta thấp, thì có lẽ, nên tuyên dương ông. Vì dám nói ra sự thật, sự thật mà các ngài lãnh đạo đều biết nhưng chưa ai có can đảm nói. Nhưng mà cũng không được, vì ông đại biểu này khi bị phản đối đã lại kịp có bài thanh minh rằng ông ta không nói ra điều đó. Ý ông không phải vậy, dân hiểu lầm ý ông rồi. Đấy, lại một lần nữa, dân trí thật thấp, thật ngu, lãnh đạo phát biểu gì người dân cũng hiểu lầm hết.

Từ “dân trí thấp” “quyền im lặng và biểu tình là nguy hiểm” “xu thế ghét Trung Quốc là nguy hiểm cho dân tộc” “nước ta còn dân chủ gấp vạn lần các nước tư bản” “đa số người dân ủng hộ chặt cây” “chưa quyết xem thờ ai trong miếu” “chúng ta phải cố gắng xây dựng quân đội mạnh như Triều Tiên” “dân sai thì dân chịu chứ kỷ luật ai”…

Đấy, câu phát ngôn nào cũng bị người dân hiểu lầm. Thế thì giờ sao? Lãnh đạo phải coi lại cách phát biểu sao cho dân hiểu. Hay người dân phải cố mà hiểu cho đúng ý lãnh đạo? Ôi tôi cũng không biết nữa, vì như đã nói, dân trí tôi thấp lắm. Sao hiểu được ý mấy ông. Nhưng mà dù dân trí tôi thấp đi chăng nữa, thì có một điều tôi dám cam đoan, rằng bất kể chuyện gì xảy ra bất kể kết quả thế nào, cũng là nhờ ơn Đảng và Nhà Nước.

Nên dù cho cả nước có bị dân trí thấp, tôi cũng xin thay mặt toàn dân, cảm ơn Đảng và Nhà Nước!