Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính luận. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chính luận. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

2/4/2016 - Quốc hội khóa 13 và quốc hội khóa 14 và hiến pháp xã hội chủ nghĩa

Tại sao Quốc hội Việt Nam khóa 13 lại vượt quá quyền hạn của mình, vội vàng bầu bốn chức vụ chủ chốt của bộ máy quyền lực? Câu hỏi này đã lan truyền trong nhân dân từ khi thông tin về về việc này được đưa ra, và cũng đã có nhiều diễn giải.

Việc Quốc hội khóa 13 bầu chủ tịch cho Quốc hội khóa 14 và bầu các chức vụ lãnh đạo chủ chốt của nhà nước cho nhiệm kỳ của Quốc hội khóa 14 là một bằng chứng hùng hồn cho việc Hiến pháp Việt Nam chỉ là một mớ giấy lộn.

Những người soạn thảo Hiến pháp và thông qua Hiến pháp (tức là Quốc hội) lại là những người coi nó không ra gì, sẵn sàng vi phạm nó, chà đạp nó bằng các quyết định và các việc làm tùy tiện của mình.

Trong khi đòi người dân tôn trọng luật pháp, thì cơ quan lập pháp tự mình ngồi xổm lên pháp luật. Điều này chứng minh một nhận định của Hannah Arendt từ những năm 50 của thế kỷ trước: trong một thế chế toàn trị “tất cả đều có thể xảy ra”.

Hệ lụy của những hành vi vi phạm Hiến pháp của Quốc hội là gì? Có nhiều hệ lụy, ở đây tôi chỉ nêu ra một hệ lụy, chắc sẽ còn có nhiều phân tích khác của những người khác.

Cho dù về mặt cá nhân, tôi kính trọng chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, thì lo-gic thông thường buộc tất cả người dân Việt Nam (trong đó có tôi) phải nhận ra rằng: Quốc hội 14 do bà Nguyễn Thị Kim Ngân lãnh đạo sẽ là một Quốc hội bù nhìn, số phận bù nhìn này vừa được tuyên bố một cách công khai, một Quốc hội đã bị tước hết tất cả các quyền cơ bản và quan trọng (quyền bầu chủ tịch của mình, quyền bầu các chức danh lãnh đạo của nhà nước, vốn được ghi trong Hiến pháp) ngay từ khi chưa ra đời. Và kéo theo đó, việc “toàn dân” bầu Quốc hội khóa 14 chỉ còn là một việc làm vô nghĩa, chỉ còn là một hình thức chia chác tiền ngân sách cho các đơn vị tổ chức bầu cử mà thôi.

Tuy nhiên, nếu, một ngày đẹp trời, trong tương lai, trên 50% đại biểu của Quốc hội 14 đột nhiên tìm lại lòng tự trọng của mình, đột nhiên muốn giành lại phẩm giá và quyền tự quyết cho mình, đột nhiên không muốn làm bù nhìn nữa, và họ tuyên bố rằng bà Nguyễn Thị Kim Ngân không do họ bầu ra, vì thế bà không phải là chủ tịch của họ.

Bà do Quốc hội khóa 13 bầu ra, vậy bà là chủ tịch của Quốc hội khóa 13, chứ không phải là chủ tịch của Quốc hội khóa 14.

Đối với Quốc hội khóa 14, bà Nguyễn Thị Kim Ngân là một lãnh đạo không chính danh và không hợp pháp. Vì thế, họ sẽ bầu lại một chủ tịch mới, một chủ tịch đích thực của họ, do họ bầu ra.

Về cơ bản, Quốc hội khóa 14 hoàn toàn có quyền làm như vậy. Và các chức danh lãnh đạo do Quốc hội khóa 13 bầu ra cũng có thể rơi vào tình trạng tương tự.

Cách làm của Quốc hội khóa 13 (lưu ý là chưa từng xảy ra trong lịch sử Quốc hội Việt Nam) đã tước mất tính chính danh và tính hợp pháp của các chức vụ lãnh đạo chủ chốt, khiến cho nhiệm kỳ của họ sẽ bị rơi vào một tình thế khó khăn, nếu có một lúc nào đó, Quốc hội 14 quyết định truy xét lại tính hợp pháp của họ.

Việc Quốc hội khóa 14 đòi thực hiện quyền của mình, quyền đã được hiến định, quyền của cơ quan quyền lực cao nhất của một quốc gia, là điều bình thường, và hoàn toàn có thể xảy ra, trong một đất nước pháp quyền, nơi pháp luật được tôn trọng và có giá trị thực trong sinh hoạt xã hội.

Dĩ nhiên, không thể hình dung một kịch bản như thế trong một thế chế độc tài. NHƯNG, lịch sử có những bất ngờ mà đôi khi không ai có thể dự đoán được.

Ngoài ra, nếu nhìn từ một góc độ khác, có thể thấy: hiện nay, một trong những nguyên tắc hoạt động của đảng cầm quyền ở Việt Nam là «tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách», và lãnh đạo theo nguyên lý “dân chủ tập trung”.

Nguyên lý và nguyên tắc này dẫn đến hệ quả tất yếu là trong hoạt động quyền lực, trên thực tế, mọi việc đều do Bộ Chính trị (BCT) quyết, kể cả hoạt động của Quốc hội. BCT là đầu não, là trung tâm quyền lực. Vì thế mới có thể xảy ra việc Quốc hội khóa 13 bầu chủ tịch cho Quốc hội khóa 14, và bầu luôn cả các chức danh lãnh đạo chủ chốt.

Dĩ nhiên, nếu BCT không chỉ đạo thì sẽ không bao giờ có việc đó. Dù sao trong Quốc hội 13 cũng có những đầu óc hiểu biết, và vẫn còn có những người có liêm sỉ, nếu được tự quyết thì họ sẽ không làm một việc như vậy, và trước hết là họ không đặt ra vấn đề đó như một nhiệm vụ của họ, vì họ biết rõ việc đó vượt khỏi quyền hạn được phép của họ.

Vậy, BCT mới có 19 người, và có bốn người ở các vị trí chủ chốt: tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội. Như vậy, 4/19 là thiểu số.

Nếu mai kia, một ngày đẹp trời, 15/19 thành viên của BCT muốn thay toàn bộ bốn chức danh chủ chốt này, thì với tiền lệ vừa được Quốc hội 13 tạo ra, họ sẽ thi hành ngay lập tức. Bốn vị này sẽ phải viết đơn từ nhiệm, và Quốc hội sẽ lại bầu bộ tứ mới. Đã có tiền lệ rồi mà, có việc gì là không làm được? Lúc đó, hãy hình dung điều gì có thể xảy ra.

Quốc hội 13, bằng sự phục tùng vô điều kiện của mình, bằng việc từ bỏ chức trách của mình khi thực hiện vô điều kiện các đòi hỏi của BCT, đã vừa tạo ra tiền đề cho những khủng hoảng rất có thể sẽ xảy ra về sau ở bộ phận cao nhất của cơ quan quyền lực.

Câu hỏi tự động được đặt ra là: điều gì đang xảy trong guồng máy lãnh đạo Việt Nam? Phải chăng đấy là một việc làm có tính toán phục vụ cho một mục đích dài hạn của một nhóm người nào đó hay một thế lực nào đó?

Nhưng câu hỏi cũng có thể đươc đặt ra theo kiểu khác (đúng là “mọi điều đều có thể”!):

Phải chăng, cách làm việc và các quyết định hết sức tùy tiện, vi phạm luật pháp, hiến pháp, như đang diễn ra hiện nay, là để chuẩn bị cho những rối loạn không thể tránh khỏi trong tương lai?

Và những rối loạn này sẽ buộc Việt Nam phải thay đổi một cách triệt để hệ thống chính trị của mình? Phải chăng đấy là chủ ý của những người đang âm thầm chuẩn bị cho các rối loạn này, bởi vì hiện tại họ quá đơn độc, không thể trực tiếp và công khai thực hiện các cải cách mà họ mong muốn?

Nếu quả thật như vậy thì chúng ta sẽ phải cảm ơn vị (hoặc một số vị) đạo diễn tài ba, khôn khéo, đang lặng lẽ chuẩn bị cho những khủng hoảng sẽ dẫn tới chuyển biến mang tính lịch sử của chính trị Việt Nam.

Tuy nhiên, những chuyển biến đó chỉ có thể xảy ra khi và chỉ khi người dân và trí thức Việt Nam hiểu được ngầm ý của các vị “đạo diễn” đó để có các hành động phối hợp nhịp nhàng với họ.

Nếu Quốc hội khóa 13 vi phạm Hiến pháp nhưng Quốc hội khóa 14 và người dân đều chấp nhận, thì sẽ chẳng có gì xảy ra. Và hẳn nhiên, khi người dân Việt Nam quyết định hành động, và hành động một cách đồng bộ, mạnh mẽ, thì dù có hay không sự tồn tại của các vị “đạo diễn” kia, hệ thống chính trị buộc sẽ phải chuyển động.

Nguyễn Thị Từ Huy


Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

11/10/2015 - Cần khởi tố trưởng công an và viện trưởng viện kiểm sát huyện Chương Mỹ, Hà Nội

Vụ việc em Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, tử vong do bị đánh tại trại giam của huyện Chương Mỹ, cho thấy khả năng cơ quan công an cùng Viện kiểm sát địa phương đã công khai vi phạm tố tụng, và cung cấp thông tin cho báo chí theo hướng sai lệch bản chất vụ việc.

Thông tin từ cơ quan công an: “Vụ việc xảy ra vào sáng 5-8-2015. Vào ngày này, công an huyện Chương Mỹ bắt quả tang Đỗ Đăng Dư có hành vi “trộm cắp tài sản” đối với một người hàng xóm.

Quá trình điều tra, Dư khai nhận ngoài vụ trộm cắp tài sản này, từ cuối năm 2014 đến thời điểm bị bắt, Dư đã gây ra 4 vụ trộm cắp khác. Bản thân Dư cũng nghiện game, thường xuyên bỏ nhà đi chơi, gia đình không quản lý được và đã kiến nghị cơ quan chức năng có biện pháp ngăn chặn đối với Dư.

Từ các căn cứ trên, cơ quan cảnh sát điều tra, công an huyện Chương Mỹ đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Dư để điều tra vụ án và phòng ngừa chung.

Ngày 7-8, cơ quan điều tra đã tống đạt quyết định khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam 2 tháng đối với Dư. Các quyết định này đã được viện KSND huyện Chương Mỹ phê chuẩn”.

Với các thông tin nói trên, cho thấy việc khởi tố bị can và tạm giam 2 tháng đối với Đỗ Đăng Dư là vi phạm tố tụng được nêu tại Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH.

“Điều 5. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự. Đặc biệt cần xem xét việc miễn trách nhiệm hình sự nếu có đủ điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự, giao họ cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức giám sát, giáo dục nhằm giúp họ tự sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng”. (Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH)

“Điều 69. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội

2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục”. (Bộ luật hình sự)

Tình tiết vụ việc như thông tin từ công an huyện Chương Mỹ cung cấp cho báo chí, cho thấy em Đỗ Đăng Dư không có tình tiết nào gọi là “cố ý phạm tội” để dẫn đến việc phải tạm giam em 2 tháng, đưa đến cái chết tức tưởi do bị đánh như nói trên

“Điều 9. Cố ý phạm tội

Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”. (Bộ luật hình sự)

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, “Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Có thể xác định rõ rằng công an và viện kiểm sát huyện Chương Mỹ đã cố tình không thực hiện đúng quy định của pháp luật, dẫn đến cái chết của em Đỗ Đăng Dư.

Như vậy, cần thiết khởi tố vụ án về trách nhiệm công vụ của trưởng công an và viện trưởng Viện kiểm sát huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

Nguyễn Gia Định


Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

9/10/2015 - Dự án chỉnh trang đô thị phường Long Bình, Quận 9, Sài Gòn: tham nhũng chính sách

“Dự án Chỉnh trang đô thị phường Long Bình, quận 9” được công bố ở Quyết định số 75/QĐ, ký ban hành ngày 08-01-2008, thu hồi 978.491m2 đất tại phường Long Bình, quận 9 của hàng trăm gia đình để thực hiện dự án chỉnh trang đô thị. Diện tích đất thu hồi gồm 2 khu: khu 1, diện tích 360.835,4 m2, gồm bãi khai thác đá và bãi thi hành án; khu 2, diện tích 617.655 m2, gồm đất của 211 hộ dân, trong đó 125 hộ có nhà ở, đất ở và 86 hộ có đất nông nghiệp.

Với số liệu cụ thể về phân loại diện tích đất thu hồi như trên, cho thấy toàn bộ diện tích đất thu hồi nơi đây chưa phải là khu đô thị để chỉnh trang. Tên gọi đúng là “thu hồi đất để xây dựng khu đô thị mới”. Quyết định số 75/QĐ, ngày 08-01-2008 do phó chủ tịch Nguyễn Hữu Tín ký ban hành, có dấu hiệu đã khoác chiếc áo chỉnh trang đô thị lên dự án xây dựng, kinh doanh mới để áp giá đền bù, thay cho thương lượng.

Căn cứ cho thấy về “đánh lận con đen” của Quyết định số 75/QĐ, ngày 08-01-2008, là sau đó, vào ngày 12-11- 2012 UBND TP.HCM ban hành Quyết định số 5758/QĐ-UBND về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng quận 9 đến năm 2020, tỷ lệ 1/10.000. Theo đó, sẽ tiến hành xây dựng khu đô thị mới ở phường Long Bình.
(Nguồn: http://www.quan9.hochiminhcity.gov.vn/…/li…/posts/post.aspx…)

Như vậy, với hàng loạt khuất tất ở “Dự án Chỉnh trang đô thị phường Long Bình, quận 9” suốt mấy năm qua, cho thấy không thể áp dụng Nghị định 69/2009/NĐ-CP “Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”, mà phải áp dụng Nghị định số 43/2014/NĐ-CP “Hướng dẫn thi hành luật đất đai”.

Nói thêm, “Dự án Chỉnh trang phát triển đô thị tại phường Long Bình, Quận 9” thực chất là việc đổi đất lấy hạ tầng giữa chính quyền TP.HCM với Công ty Kỹ thuật và xây dựng GS (GS E&C - Hàn Quốc). Theo đó, cuối năm 2007, chính quyền đã trao cho GS E&C quyền sử dụng 5 khu đất ở các quận 2, 9 và 10 để đổi lại việc nhà đầu tư Hàn Quốc này bỏ tiền ra xây dựng tuyến đường vành đai ngoài Tân Sơn Nhất - Bình Lợi với quy mô từ 6 - 12 làn xe, dài 13,65 km.

Năm khu đất mà chính quyền TP.HCM giao cho GS E&C, bao gồm 2 khu ở phường Thảo Điền (quận 2), tổng diện tích 4,42 ha và một khu ở bán đảo Thủ Thiêm 4 ha, khu “chợ thuốc tây” Trường đua Phú Thọ (quận 10) và khu Long Bình (quận 9) 92 ha.

Tuy nhiên, trong khi lập phương án bồi thường thì khu đất 92 ha tại quận 9 “biến” thành “Dự án Chỉnh trang phát triển đô thị tại phường Long Bình, Quận 9”.


Nguyễn Gia Định

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2015

Sắp mở màn: kịch hay "Bắc đới hà"



Hội nghị Bắc Đới Hà mỗi năm một lần có thể trở thành cuộc đấu giữa các nguyên lão và nhà lãnh đạo đương nhiệm, trong đó, bên bị “đấu tố” chính là ông Tập Cận Bình.
Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay có thể sẽ khác một trời một vực với hai năm trước khi ông Tập Cận Bình hừng hực khí thế, “bắn hạ” một loạt “hổ lớn” như Bạc Hi Lai (nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Thành uỷ Trùng Khánh), Chu Vĩnh Khang (nguyên Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị kiêm Bí thư Chính pháp Trung ương), Quách Bá Hùng (nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương) và Lệnh Kế Hoạch (nguyên Uỷ viên Trung ương kiêm Phó Chủ tịch Chính hiệp Toàn quốc).
Xem xét sóng gió trên thị trường chứng khoán đang diễn ra có thể thấy vấn đề nghiêm trọng nhất mà ông Tập Cận Bình phải đối mặt, là trên lĩnh vực kinh tế và bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra, từ đó dẫn tới khả năng mất kiểm soát và “bị lật ghế”. Việc kinh tế, chính trị và nhân sự có nhiều điểm trộn lẫn nhau khiến cho hội nghị Bắc Đới Hà lần này nhận được sự quan tâm chú ý đặc biệt của dư luận. Kỳ thực, trong đó nhân sự là nội dung quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Nếu như kinh tế mất kiểm soát như trên thị trường chứng khoán nước này hiện nay, ông Tập Cận Bình không những không thực hiện được việc để người khác “có thể lên, có thể xuống” như mong muốn, mà e rằng chính ông Tập Cận Bình sẽ là đối tượng “có thể xuống” đầu tiên. Việc ông Tập Cận Bình bị buộc phải kiểm thảo là còn nhẹ. Nếu nghiêm trọng tới mức mất kiểm soát, việc “bưng” ông Tập Cận Bình xuống là điều dễ thấy.

Cùng điểm lại chiến dịch “Đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình:



Nguyên Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Trung Quốc Quách Bá Hùng đã bị khai trừ Đảng. Ông Quách bị cáo buộc đã “lợi dụng vị trí chức vụ để thăng quan tiến chức cũng như trục lợi từ những kẻ hối lộ.



Trước đó, quan chức quân đội cấp cao nhất Tướng Từ Tài Hậu cũng đã bị khai trừ khỏi Đảng vào giữa năm 2014 vì tội nhận hối lộ và lợi dụng chức quyền. Trong lúc bị đặt trong vòng điều tra và có nguy cơ phải ra hầu tòa án hình sự, Từ Tài Hậu qua đời vì bệnh ung thư vào tháng 3/2015. Theo báo cáo của truyền thông địa phương, số tiền mặt cất giữ tại nhà của ông cần phải mất một tuần để có thể kiểm kê và 12 xe tải vận chuyển về cơ quan điều tra.



Cánh tay phải của cựu Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Lệnh Kế Hoạch cũng đã bị bắt giữ vì tội nhận hối lộ, ăn cắp bí mật quốc gia, cũng như bao nuôi tình nhân và lợi dụng chức quyền để thỏa mãn dục vọng của mình. Lệnh Kế Hoạch trở thành chính trị gia lớn thứ hai bị “hạ bệ” bởi chiến dịch chống tham nhũng, ngay sau vụ ngã ngựa của nguyên Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị - Chu Vĩnh Khang.



Ngày 16/7, Phó Cục trưởng Tổng cục Thể thao Trung Quốc Tiêu Thiên đã bị sa thải và hiện đang đặt trong vòng điều tra vì những cáo giác tham nhũng.



Trùm tài phiệt Liu Han ở tỉnh Hồ Bắc đã phải nhận mức án tử hình với tội danh giết người và điều hành tổ chức có hình thức hoạt động giống mafia. Hắn tuy không phải là một quan chức cấp cao dính líu đến tham nhũng song lại có quan hệ mật thiết với “hổ lớn” Chu Vĩnh Khang.



Ngày 11/6, Tòa án Nhân dân Trung cấp số 1 thành phố Thiên Tân đã tuyên án tù chung thân đối với cựu Bộ trưởng Công an Trung Quốc Chu Vĩnh Khang, với các tội danh nhận hối lộ, lạm quyền và cố ý để lộ bí mật quốc gia. Ông Chu Vĩnh Khang bị tước vĩnh viễn các quyền về chính trị và bị tịch thu toàn bộ tài sản cá nhân.



Bạc Hy Lai - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Thành ủy Trùng Khánh - năm 2013 đã phải chịu án tù chung thân vì tội nhận hối lộ, tham nhũng và lạm dụng quyền lực. Trong "Sách Trắng” 2014, lần đầu tiên chính phủ Trung Quốc công khai thừa nhận việc Chu Vĩnh Khang và Bạc Hy Lai câu kết bè phái trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Nguyễn Gia Định

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Khôi phục niềm tin, khôi phúc đạo làm người

Luật sư Nguyễn Hữu Thống, Ủy ban Luật gia Việt Nam bảo vệ dân quyền



Song song với việc phát huy 10 tình cảm tự nhiên trong Đạo Làm Người như tình gia đình, tình thầy trò, tình bạn bè, tình lối xóm, tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu dân tộc, yêu nhân loại, yêu thiên nhiên và yêu chim muông súc vật, chúng ta phát huy 5 lý tưởng truyền thống của dân tộc như tinh thần đại đồng, tinh thần nhân bản, tinh thần dân chủ, tinh thần hiếu hòa và tinh thần bao dung.

Mục đích để khôi phục Niềm Tin và khôi phục Đạo Làm Người.

A. - PHÁT HUY NHỮNG LÝ TƯỞNG TRUYỀN THỒNG CỦA DÂN TỘC

Đạo ở gần sao tìm nơi xa? (Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn)

Việc giản dị, sao tìm chỗ khó? (Sự tại dị nhi cầu chư nan)

Chỉ những kẻ đau khổ hoạn nạn, những cô thần nghiệt tử lúc nào cũng lao tâm khổ trí mới thấu tình đạt lý (Độc cô thân nghiệt tử cố đạt)



Năm 1905, sau khi Nhật thắng Nga tại Lữ Thuận (còn gọi là cảng Athur), cụ Sào Nam Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du để cầu ngoại viện và học hỏi tại chỗ sự phú cường của Nhât Bản, một quốc gia đồng văn với Việt Nam. Lấy tri hành hợp nhất của nho gia Vương Dương Minh làm chủ thuyết, từ thế kỷ trước, Minh Trị Thiên Hoàng đã canh tân Nhật Bản theo biểu hiệu “nhật nhật tân, hựu nhật tân” (ngày ngày đổi mới, càng ngày càng thêm mới).

Trong 20 năm hoạt động tại hải ngoại cụ Phan kết giao với một số nhân sĩ và nho sĩ như Lương Khải Siêu và Tôn Trung Sơn. Năm 1925 cụ bị Pháp bắt giam tại Thượng Hải rồi bị an trí hành chánh tại Huế. Trong thời gian quản thúc cụ biên soạn cuốn Khổng Học Đăng, kêu gọi quốc dân noi gương người Nhật đổi mới xứ sở bằng tân học (khoa học kỹ thuật) đồng thời bảo tồn các giá trị tinh thần trong đạo học cổ truyền.

Theo Phan Sào Nam, cựu học không phải là hủ lậu mà tân học cũng không phải là phù hoa. Xây dựng một quốc gia cũng giống như xây dựng một căn nhà. Phải lấy đạo học làm nền móng và khoa học kỹ thuật làm kiến trúc. Không có nền móng không xây được nhà. Không có kiến trúc không cất được nhà. Đạo học và khoa học chẳng những không tương phản mà tương thành.

Phan tiên sinh nhắn nhủ các sinh viên hậu bối: “Học cũ là nền tảng, mà học mới là tài liệu, hai bên vẫn có thể giúp nhau làm nên một tòa nhà hoa mỹ. Tác giả viết sách này là muốn điều hòa học cũ và học mới. Những ai chưa đọc sách này mà đã có thành kiến, hoặc bài bác học cũ hoặc công kích học mới thì xin chớ đọc. Ai đọc sách này phải lập chí và tự nhủ rằng: “Thánh hiền là ta, ta là thánh hiền, ta chỉ là hậu tiến của cổ nhân mà thôi”.

Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng chủ trương phục hồi nho học. Trước khi là chủ tịch Hội Nho Học Thế Giới, ông đã từng hành nghề luật sư tại Luân Đôn, gia nhập Đảng Lao Động Anh từ hồi còn đi học, tổ chức Đảng Nhân Dân Hành Động Tân Gia Ba (Singapore) để giành độc lập cho đất nước và lãnh đạo quốc gia trong ba thập niên.

Về mặt chính trị ông theo chủ nghĩa dân chủ xã hội (democratic socialism), tôn trọng tự do, công lý và công bằng bác ái. Trong đời sống tinh thần ông xuất sử như một nho gia giữ lễ nghĩa trung tín trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Tân Gia Ba ngày nay là một con rồng kinh tế tại Đông Nam Á. Lợi tức bình quân mỗi đầu người cao thứ nhì chỉ sau Nhật Bản. (Ba con rồng khác tại Thái Bình Dương là Đài Loan, Đại Hàn [Hàn Quốc] và Hồng Kông đều theo tinh thần Nho Giáo).

Từ một hòn đảo nhỏ bé với trên 2 triệu dân, Tân Gia Ba đã trở thành một quốc gia tân tiến với dân giàu, nước thịnh và xã hội văn minh. Văn hóa giáo dục phát triển, kỷ cương luật pháp nghiêm minh. Với giới lãnh đạo liêm khiết, nạn tham nhũng không thể lộng hành. Tàng trữ và phổ biến ma túy có thể bị phạt tử hình. Thiếu niên du đãng có thể bị phạt giam và đánh bằng roi. Khi từ nhiệm Lý Quang Diệu nhường quyền lãnh đạo cho một người hiền năng mà không trao cho con trai quyền thừa kế chính trị. Ông đã áp dụng quan niệm Thiên Hạ Vi Công.

Việt Nam ngày nay đang qua cơn sốt phát triển. Với nền kinh tế thị trường giả mạo mặt trái của nó đã phát hiện những tệ đoan trầm trọng như tham lam ích kỷ, xa hoa phóng đãng của những kẻ bất tài vô hạnh nắm giữ chính quyền. Muốn đem lại quân bình cho xã hội, hạnh phúc cho con người, hơn bao giờ hết Việt Nam phải biết phục hồi những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc như tinh thần đại đồng, tinh thần nhân bản, tinh thần dân chủ, tinh thần hiếu hòa và tinh thần bao dung.

Đó là những nền móng tinh thần để dựng nước.

I. TINH THẦN ĐẠI ĐỒNG (Thiên Hạ là của chung)

Muốn thi hành Đại Đạo phải coi thiên hạ là của chung, tuyển chọn người hiền năng, giảng điều tín nghĩa, dạy điều hòa thuận. Cho nên người dân không chỉ thân riêng cha mẹ mình, không chỉ thương riêng con mình. Cho người già có chỗ nương thân trọn đời, người trai tráng có việc làm và trẻ thơ được dưỡng dục đến trưởng thành. Chăm sóc người góa phụ, trẻ mồ côi, kẻ tàn phế. Thanh niên có chức phận, phụ nữ có gia đình. Tài sản không hoang phí ngoài ruộng đất mà hà tất phải tàng trữ làm của riêng tư? Tài lực do thân mình làm ra mà hà tất chỉ để phục vụ quyền lợi riêng mình? Vì vậy mưu mô quỷ quyệt không thi thố được, trộm cướp phi pháp không lộng hành được. Từ đó cửa ngõ không cần đóng kín. Đó là đời Đại Đồng.

Các quốc gia dân chủ Tây Phương đã thiết lập chế độ an sinh xã hội để nuôi dưỡng người già, trẻ thơ, người tàn phế, người thất nghiệp. Tại Hoa Kỳ ngày nay người già có chỗ nương thân trọn đời, trẻ thơ được dưỡng dục đến trưởng thành, kẻ tàn phế, người thất nghiệp được hưởng trợ cấp. Vậy mà nạn trôm cướp, bạo hành, sát nhân, ma túy, du đãng vẫn lộng hành. Con người có cơm ăn áo mặc nhưng vẫn thiếu an vui lạc phúc. Lý do là vì nhà nước quá chú trọng về kinh tế mà xao lãng Đạo Lý, đặt quyền lợi trước Lễ Nghĩa.

Các nhà thức giả kỳ vọng rằng qua thiên niên kỷ tới đây, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên Đại Đồng khi Khoa Học Tây Phương phối hợp với Đạo Học Đông Phương. Khu vực Á Châu Thái Bình Dương sẽ là nơi thực thi nền tổng hợp Đông Tây đem lại Thái Hòa cho nhân loại.

II. TINH THẦN NHÂN BẢN (Giá trị con người trong vũ trụ)

“Lửa và nước có khí mà không có sinh. Cây cỏ có sinh mà không có biết. Chim muông có biết mà không có nghĩa. Con người có khí, có sinh, có biết lại có nghĩa nên được coi là quý nhất trong thiên hạ” (Tuân Tử)

“Người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của thần linh, là cái khí tinh túy của ngũ hành” (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ).

Nhờ có tinh thần linh diệu và khí chất tinh túy, con người có giá trị tôn quý trong vũ trụ, được sánh ngang với trời đất, trong ba ngôi tam tài Thiên, Địa, Nhân.

Trời sinh ra người, phú cho người tính sáng suốt, thì đạo làm người phải cố gắng theo Đạo Trời mà tiến đến chí thiện, chí mỹ. Tính sáng suốt ấy được gọi là minh đức hay lương tri, tức là khiếu tri giác, mẫn tiệp giúp con người hiểu được tinh thần và chân lý của vạn vật.

Trong hàng ngàn năm chung sống trong xã hội con ngưới ý thức được sự cần thiết của đạo hợp quần:

“Người ta sức không bằng con trâu, chạy không bằng con ngựa, thế mà con trâu con ngựa phải phục vụ con người là vì sao? Là vì con người biết hợp quần.

Lấy gì mà hợp quần? – Lấy định phận.

Định phận thì làm thế nào mà có nhân? – Lấy nghĩa để giữ nhân.

Lấy nghĩa mà định trên dưới thì hòa, hòa thì hợp, hợp thì tăng sức mạnh, tăng sức mạnh thì thắng muôn vật (Tuân Tử)

Nhờ có hợp quần và lương tri con người được làm chủ thiên nhiên.

III. TINH THẦN DÂN CHỦ (Dân vi quý, Quân vi khinh)

Người ta sinh hoạt ở đời không thể không quần tụ. Quần tụ mà không định phận trên dưới thì tranh đoạt nhau. Tranh đoạt nhau thì loạn, loạn thì khốn cùng.

Cho nên định phận là cái lợi lớn của thiên hạ mà đấng nhân quân (cầm quyền) là cái then chốt để cai quản phận trên dưới. Đã có nhân quần, phải có nhân quân để giữ trật tự xã hội. Quân giả là cái nguồn của dân, nguồn trong thì nước trong, nguồn đục thì nước đục. Thi nhân với thiên hạ thì ai cũng thương. Thi nghĩa với thiên hạ thì ai cũng quý. Thiên hạ trọng kẻ nhân quân thì bậc nhân quân cũng phải coi thiên hạ là của chung. Nếu chỉ biết thủ lợi riêng mà làm điều bạo ngược thì trái với thiên đạo.

Trời sinh ra dân không phải vì vua. Trời lập ra vua là bởi vì dân. Khi vua tàn bạo người dân có quyền phế bỏ. Giết vua tàn bạo cũng như giết kẻ độc phu (tru bạo quốc chi quân, nhược tru độc phu). Lấy nhân nghĩa mà trị thì thiên hạ yên, lấy tàn bạo mà trị thì thiên hạ nguy. Quân là thuyền, dân là Nước, Nước chở thuyền nhưng nước lại đánh đắm thuyền (Tuân Tử). Trong Đức lý Dân Chủ Đông Phương có câu “Nếu Dân không tín nhiệm chính quyền thì chính quyền phải sụp đổ (Dân vô tín bất lập).

Ngoài ra còn có câu “Vua coi Dân như tay chân thì Dân coi Vua như long dạ. Vua coi Dân như chó ngựa thì Dân coi Vua như người dưng. Vua coi Dân nhu cỏ rác thì Dân coi Vua như giặc thù. Người làm hại nhân là tặc. Người làm hại nghĩa là tàn. Tàn tặc là kẻ không ra gì! Ta chỉ nghe nói giết tên Trụ, chứ không nghe nói giết vua vậy” (Mạnh Tử).



Một số tôn giáo chủ trương vua là con trời (thiên tử) thay Trời trị Dân, vua muốn làm điều gì là Trời muốn điều ấy. Nho giáo trái lại quan niệm Trời với Người đồng một thể, hễ Dân muốn điều gì thì Trời muốn điều đó. Muốn biết Thiên Ý cứ xem ở Dân Tâm:

“Trời bao giờ cũng thương dân, dân muốn điều gì trời cũng chiều theo (dân chi sở dục, thiên tất tòng chi. Trời trông thấy cũng vì dân trông thấy, Trời nghe thấy cũng vì dân nghe thấy. Trời sáng suốt là vì dân sáng suốt.Trời minh định thiện ác là vì dân minh định thiện ác. Trên Trời dưới Dân thông đạt với nhau… Trời không thân riêng với ai, chỉ giúp người có đức. Mệnh Trời không trao mãi cho ai, thiện thì được, bất thiện thì mất. Thuận đạo Trời thì còn, Trái đạo Trời thì mất” (thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong) (Mạnh Tử)

Trời với Dân tương quan mật thiết với nhau, do đó trong thiên hạ dân quý hơn cả, vì có dân mới có nước, có nước mới có vua. Dân là gốc nên phải lấy Dân làm quý, Vua làm khinh:“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, Quân vi khinh” (Mạnh Tử) Lấy dân làm trọng, Nhà Nước là thứ yếu và coi nhẹ chính quyền.

Đó là đức lý dân chủ truyền thống đông phương.

Dân vi quý đưa ra những chủ trương đường lối thực tiễn để mưu cầu hạnh phúc cho dân, tạo bình đẳng cơ hội cho dân trau giồi giáo dục kỹ thuật để tự lực mưu sinh, phát huy văn hóa đạo đức để nâng cao nhân phẩm, gây cho dân ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi để tự làm chủ lấy mình (tự do) và làm chủ xã hội (dân chủ).

Theo quan niệm Xã Tắc Thứ Chi, nhà nước là công cụ để điều hòa quyền lợi và nghĩa vụ của các tầng lớp dân chúng. Do đó không thiết lập chế độ tư bản nhà nước, đế quốc nhà nước để tước đoạt tự do tài sản nhân quyền của dân. Không tổ chức công an mật vụ để trấn áp dân. Không xây dựng quân đội hùng mạnh để đi gây hấn và xâm lấn các quốc gia hiếu hòa lân bang.

Do quan niệm Quân Vi Khinh nhân dân có quyền truất phế các chính quyền chuyên chế bất lực hay tham nhũng. Nếu gặp phải hôn quân bạo chúa, nhân dân có quyền đứng lên dùng võ trang tiêu diệt kẻ tham quyền cố vị đàn áp dân lành.

Trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, nhân dân có quyền thay đổi chính quyền trong vòng ôn hòa hợp pháp bằng cách xử dụng lá phiếu trong các cuộc tổng tuyển cử tự do và công bằng.

Nhắc lại chủ trương Dân Vi Quý của Nho Giáo chúng ta mới ý thức câu “Đạo ở gần sao tìm nơi xa? Việc giản dị, sao tìm chỗ khó?” (Đạo tại nhĩ, nhi cầu chư viễn. Sự tại dị, nhi cầu chư nan).

Chỉ những kẻ đau khổ hoạn nạn, những cô thần nghiệt tử lúc nào cũng lao tâm khổ trí mới thấu tình đạt lý. (Độc cô thần nghiệt tử cố đạt) (Mạnh Tử)

IV. TINH THẦN HIẾU HÒA (Thiện chiến giả phục thượng hình)

Thời Chiến Quốc các nước chủ trương kinh doanh thủ lợi, bắt dân đi lao động khổ sai để khai phá rừng hoang làm giàu cho vua chúa. Có phương tiện trong tay vua chúa tuyển mộ quân lính, mua sắm võ khí để tranh quyền cướp nước gây nên chinh chiến tàn sát dân lành.

“Đời nay người thờ vua nói rằng: Ta vì vua mà khai phá ruộng đất, làm đầy kho tàng, họ tự nhận là lương thần, đời xưa coi họ là dân tặc. Vua không theo đạo nhân mà giúp cho giàu có là giúp cho tên Kiệt vậy. Đời xưa làm cửa ải để chống tàn bạo (ngoại xâm). Đời nay làm cửa ải để đàn áp bóc lột dân làm điều tàn bạo.

“Có người nói: Ta giỏi bầy trận, Ta giỏi chinh chiến, như thế là đại tội. Đi giúp vua không làm điều nhân chính mà làm điều cường chiến. Chiến tranh giành đất xác người đầy đồng; tấn công vây thành xác người đầy thành, thế là đem đất ăn thịtngười, tội ấy đem xử tử còn chưa hết tội! Kẻ thiện chiến phải tội đại hình! (Thiện chiến giả phục thượng hình). Kẻ bắt dân đi lao công khai phá rừng hoang làm giàu cho vua chúa phải chịu tội thứ” (Mạnh Tử)

Ngày nay những kẻ cầm quân coi binh sĩ như cỏ rác, đẩy một lúc hàng vạn người vào chỗ chết trong chiến thuật biển người (Thảo thảo chi binh của Mao Trạch Đông) không biết phải phạt vào tội gì.

Đó là gây đại tội “giải thây trăm họ làm công một người” (Nguyễn Du)

V. TINH THẦN BAO DUNG (Thiên hạ Đồng Quy Nhi Thù Đồ)

Khác với miền Tây Á nơi những cuộc chiến tranh tôn giáo vẫn diễn ra từ ngàn năm nay, tại miền Đông Á, với truyền thống bao dung về tín ngưỡng, các đạo Công Giáo, Phât, Khổng, Lão đã đồng thời phát triển trong hàng chục thế kỷ. Đó là tinh thầntứ giáo đồng tôn.

Theo các nho sĩ thiên lý tuy biến hóa trên trăm đường ngàn lối nhưng rút cục chỉ thuộc về một lối mà thôi. “Thiên hạ lo gì, nghĩ gì? Thiên hạ rồi đây sẽ quy về một mối dầu theo những con đường khác nhau”. (Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ). Vì trăm lo chẳng qua chỉ hướng về một mục đích đem lại tự do, thanh bình, an vui và hạnh phúc cho toàn thể loài người (nhất trí nhi bách lự).

Đạo theo nho học rộng như trời đất, che chở muôn loài, chuyển vần bốn mùa, sáng rõ như mặt trời, mặt trăng. Vạn vật cùng hóa dục mà không tương khắc, các tôn giáo cùng hành đạo mà không tương phản. (Trung Dung)

Không chủ trương độc tôn, các nho gia không bài bác các tín ngưỡng khác. Vì công kích các tôn giáo khác chỉ có hại cho đạo mà thôi (Luận Ngữ)

B. TÍN NGHĨA VÀ QUYỀN MƯU

Trong việc lập quốc nho gia dựa vào trào lưu đương thời mà chia thành 3 lối: “Lấy nghĩa mà lập là theo vương đạo; lấy tín mà lập là theo bá đạo; lấy mưu mô quỷ quyệt mà lập là vong quốc.” (nghĩa lập nhi vương, tín lập nhi bá, quyền mưu lập nhi vong)

“Hô hào cả nước làm giàu mà không vụ nghĩa, thủ tín, chỉ cốt vụ lợi. Trong thì gạt dân để cầu lợi nhỏ, ngoài thì dối các nước bạn để tìm lợi lớn. Trong thì không lo phẩm chất tài hóa của mình mà chỉ muốn tài hóa của người. Người trên gạt người dưới, người dưới dối người trên gây nên chia rẽ. Các địch quốc sẽ khinh thường mình, và các nước bạn sẽ nghi ngờ mình. Dùng mãi mưu mô quỷ quyệt sẽ đưa đất nước tới nguy biến. Đó là con đường vong quốc. Lý do là vì không dùng tín nghĩa mà chỉ dùng quyền mưu vậy.” (Tuân Tử)

Dùng quyền mưu có thể cướp được chính quyền nhưng không thể xây dựng được một quốc gia tiên tiến với dân giàu nước mạnh và xã hội văn minh.

(Trên đây là bảy điều bình giải với ông Tập Cận Bình dẫn đến kỷ nguyên hậu cộng sản).


Thứ Hai, 10 tháng 8, 2015

Tượng đài không phải là công cụ để tuyên truyền

Rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và cả nước từ sau tháng 4-1975, tượng đài của lãnh tụ ĐCSVN được dựng nhiều nhất.

Trường Quốc Học ở Huế dựng tượng Nguyễn Tất Thành, người chỉ học mỗi niên khóa 1907-1908. Khi ấy, trường mang tên Pháp tự Quốc học Đường (1896-1915), Trưởng giáo (Hiệu trưởng) là ông Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Ngô Đình Diệm.

Trường Dục Thanh ở Phan Thiết dựng tượng lãnh tụ để tưởng nhớ thầy giáo dạy thể dục niên khóa 1910-1911 Nguyễn Tất Thành. Trong niên khóa đầu tiên và cũng duy nhất này, thầy giáo Nguyễn Tất Thành chỉ dạy chưa tới 6 tháng. Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn để đầu tháng 6 “ra đi tìm đường cứu nước”. Tại Bến Nhà Rồng, sau 1975 đã dựng tượng Nguyễn Tất Thành để kỷ niệm cho chuyện này.

Kiến trúc sư (KTS), họa sĩ Lý Trực Dũng - giám đốc Công ty Buffalo Architects, cho rằng các tượng đài kể trên chỉ phục vụ cho mục đích tuyên truyền, “trong khi bản chất của tượng đài không phải là tuyên truyền, đây là một vấn đề học thuật phải được nghiên cứu, bàn luận nghiêm túc...”, KTS Lý Trực Dũng nhấn rõ như vậy.

Ông Dũng cho biết trên thế giới thường dùng khái niệm thông dụng là monument (đài kỷ niệm). Monument đã có lịch sử cả hàng ngàn năm, nó không phải để tuyên truyền mà để tôn vinh một vẻ đẹp nào đó, một chiến thắng nào đó hoặc một cá nhân nào đó.

Nhưng các đài kỷ niệm trên thế giới rất khác với VN, bởi nó không cần phải có một cái tượng và một cái đài to như lâu nay người VN vẫn quan niệm. Trước năm 1930, ở VN không ai nói đến tượng đài. Chỉ sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc mới bắt đầu học và bắt đầu xây tượng đài, theo cách của Liên Xô, Trung Quốc.

Cần biết hệ thống tượng đài ở Liên Xô, Trung Quốc vốn chủ yếu phục vụ mục đích tuyên truyền. KTS Dũng nhìn nhận có một số nhân vật đã được dựng tượng đài ở một số nước để tôn vinh công lao của họ đối với đất nước họ như tượng đài George Washington ở Mỹ được xây từ năm 1848 - 1884, tượng đài Bismarck đầu tiên ở Đức năm 1868. Nhưng những tượng đài này không phải do chính phủ bỏ tiền ra xây, mà do những người yêu mến hai nhân vật này tự quyên góp tiền để xây.

“Khi tôi trao đổi vấn đề xây dựng tượng đài bằng tiền ngân sách ở VN với các đồng nghiệp nước ngoài thì họ đều rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao VN đang còn nhiều khó khăn như thế mà lại dùng tiền ngân sách xây tượng đài... Về giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, mỹ thuật và cả tâm linh thì có những tượng rất nhỏ nhưng giá trị gấp nhiều lần những tượng hoành tráng, to lớn, vô hồn. Thật sai lầm khi cứ nghĩ làm tượng đài là phải to, phải hoành tráng...

Chúng ta đang sống ở thế kỷ 21 nhưng khi nhìn hệ thống tượng đài VN, tôi cứ ngỡ mình đang sống ở thế kỷ thứ 19 hay đầu thế kỷ 20. Về hình thức, cả ngàn tượng đài đều na ná giống nhau: sáo mòn, rập khuôn, cũ rích, nhàm chán, đơn điệu...”. KTS Dũng nhận xét.

Nếu tượng đài là công cụ tuyên truyền của đảng phái nào đó, thì nguồn tiền chi vào những khoản này dứt khoát không được lấy từ tiền thuế của dân.

"Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước" (Điều 1, Luật ngân sách nhà nước).

Minh Châu



Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

Cần thay đổi tư duy soạn luật

Hiến pháp 2013, điều 25 đã quy định công dân có quyền lập hội. Như vậy đúng với tinh thần của Hiến pháp, tên luật không thể là “Luật về hội” như đề xuất của Bộ Nội vụ đưa ra vào đầu tháng 6-2015, mà phải là: “Luật quy định quyền lập hội”.

“Luật quy định quyền lập hội” để khẳng định mục tiêu chính của luật là thể hiện quyền, ý chí, nguyện vọng lập hội của người dân, chứ không phải là thể hiện vai trò quản lý của nhà nước.

Nội dung dự thảo của Bộ Nội vụ cho thấy chưa có tư tưởng gì đột phá trong tư duy xây dựng luật, mà chỉ là phiên bản mới của các Nghị định 88, Nghị định 45 trước đây mà thôi. Không quá lời khi nói rằng thói quen đi theo đường mòn cũ kỹ, thiếu tính đổi mới, sáng tạo trong tư duy và quy trình xây dựng luật được thể hiện rất rõ trong toàn bộ nội dung dự thảo.

Do đó nếu tình trạng này không được thay đổi thì thà cứ giữ nguyên các nghị định cũ còn hơn ra luật, vì với những nội dung như trong dự thảo thì chúng ta sẽ có “bình mới rượu cũ”, mặt khác, thời gian sống của luật thường rất lâu, không dễ dàng bổ sung, sửa đổi.

Thậm chí có những điểm trong dự thảo còn kém xa một số nội dung trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam (còn gọi là Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam) gửi tới Hội nghị những người đứng đầu 13 nước chiến thắng trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất họp tại Versailles, Pháp mùa hè năm 1919. Bản yêu sách được kí bởi các nhà yêu nước Việt Nam: Phan Châu Trinh (1872-1926), Phan Văn Trường (1876-1933), Nguyễn Thế Truyền (1889-1969) và Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc (1890-1969).

Trong 8 yêu sách chính có 2 yêu sách vẫn còn rất thời sự hiện nay với xã hội Việt Nam là Tự do báo chí, Tự do ngôn luận (yêu sách thứ 3), Tự do lập hội và hội họp (yêu sách thứ 4).

Trong không khí sau chuyến thăm lịch sử của TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hoa Kỳ vừa qua với nhiều tư duy được cho rằng đột phá trong xây dựng quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ với phương châm 16 chữ vàng mới: Gác lại quá khứ, Vượt qua khác biệt, Phát triển tương đồng, Hướng tới tương lai, thì ở đây cũng phải có gì đó mới chứ.

Trong dự thảo luật không thấy nhiều hồn vía của Tự do lập hội và hội họp mà xuyên suốt là xu hướng tăng cường quản lý và kiểm soát từ việc thành lập cho đến hoạt động hội.

Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ hội là nguyên tắc xuyên suốt trong toàn bộ dự thảo, nhưng có lẽ các nhà soạn thảo vẫn chưa yên tâm nên thỉnh thoảng lại chêm vào cuối nhiều điều khoản một lời nhắc nhở:”…theo quy định của pháp luật”. Trong 19 trang A4 của dự thảo, nếu tôi không nhầm, thì có đến 26 lời nhắc nhở như vậy. Thậm chí có trang chứa đến 6 lần nhắc nhởi như trên. Không biết trong các đạo luật khác có tình trạng đó không.

Có lẽ cũng nên nói thêm: nội dung của dự thảo, thật ra đã được công bố từ năm 2005. Mười năm trước, đã có nhiều góp ý rằng về mặt quản lý nhà nước đối với Hội, cần bỏ tư tưởng quản lý Hội thông qua cơ quan quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động. Đây là tư tưởng lạc hậu, bao cấp và hành chính hóa.

Việc quản lý nhà nước chỉ nên giao cho Bộ Nội vụ (ở cấp Trung ương) và UBND Tỉnh, Huyện (ở cấp địa phương) giúp chính phủ việc đăng ký thành lập Hội và tổng hợp báo cáo. Hội hoạt động tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Việt Nam tuyên bố có nền hành chính của Chính phủ điện tử. Như vậy, việc thành lập Hội của người dân chỉ cần bước thủ tục đăng ký qua mạng của cơ quan phụ trách nội vụ. Các hoạt động của Hội tuân thủ pháp luật chung.

Nguyễn Gia Định


Thứ Năm, 16 tháng 7, 2015

Chưa có bất kỳ văn bản pháp lý nào về "kết nghĩa" giữa TPHCM và TP. Sacramento

“Để tạo nền tảng cho việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa hai thành phố trong khuôn khổ quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng được cải thiện sau khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác toàn diện vào tháng 7/2013 và chuyến thăm mang ý nghĩa lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa qua, TP Hồ Chí Minh và Thành phố Sacramento, đại diện bởi ông Nguyễn Vũ Tú, Giám đốc Sở Ngoại vụ và bà Starr Hurley, Giám đốc Văn phòng phụ trách Quan hệ Kết nghĩa Sacramento đã ký bản ghi nhớ về việc hai bên cùng tiếp tục bàn thảo phương thức xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác đầy đủ giữa hai thành phố trong thời gian tới”.

Trang tin điện tử của Đảng bộ TP.HCM, đã viết như vậy.

Trang web Kết nối cộng đồng Việt, rút hẳn tít: “Thành phố Hồ Chí Minh và Sacramento hoàn tất thủ tục kết nghĩa và bang giao”. Đoạn mở đầu bài báo này viết: “Hình thức buổi lễ ký kết hiệp ước đầu tư và thương mại cũng như kết nghĩa chị em giữa thành phố Hồ Chí Minh và Sacramento đã diễn ra như bình thường, mặc dù có sự phản đối của của nhóm gần 100 người trong đó có những nhân vật quậy từ quận Cam”.
(http://kbchn.net/thanh-pho-ho-chi-minh-va-sacramento-hoan-t…)

Trang web Trương Tấn Sang thì phần trình bày tít tựa, đã lập lờ rằng: “Kỷ niệm 20 năm kết nghĩa Tp Hồ Chí Minh và San Francisco: TP Hồ Chí Minh – TP Sacramento: Ký kết bản ghi nhớ về xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác”.
(http://truongtansang.net/tp-ho-chi-minh-tp-sacramento-ky-ke…)

Nhắc lại, bản tin trang tin điện tử của Đảng bộ TP.HCM, viết: “Ông Nguyễn Vũ Tú, Giám đốc Sở Ngoại vụ và bà Starr Hurley, Giám đốc Văn phòng phụ trách Quan hệ Kết nghĩa Sacramento đã ký bản ghi nhớ về việc hai bên cùng tiếp tục bàn thảo phương thức xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác đầy đủ giữa hai thành phố trong thời gian tới”.

Như vậy, ở đây “bản ghi nhớ - Memorandum of Understanding (MOU)”, theo diễn giải pháp lý, đó là một văn kiện ghi nhận những công việc mà hai bên có thể tiến tới ký kết thỏa thuận nào đó.

Luật pháp không có qui định nào liên quan đến biên bản ghi nhớ, và trong biên bản cũng không ghi cam kết giữa hai bên, cũng như các biện pháp giải quyết nếu một bên không thực hiện, nên không có cơ sở để buộc phải thực hiện.

Về cách hiểu theo “ngôn ngữ ngoại giao”, theo giải thích của Sở Ngoại vụ TP.HCM, thì: “Quan hệ kết nghĩa có tên chính thức là “quan hệ hữu nghị hợp tác”, là mối quan hệ được thiết lập một cách tự nguyện giữa hai địa phương (gọi tắt là hai bên) khi cùng có nhu cầu tăng cường hợp tác song phương trên những lĩnh vực mà hai bên có thế mạnh bổ sung. So với các quan hệ thông thường, quan hệ kết nghĩa có đặc điểm là chặt chẽ, năng động và đa dạng hơn, thể hiện ở việc chính quyền hai bên chú trọng đề ra chiến lược chung và chương trình cụ thể hàng năm để thúc đẩy giao lưu, hợp tác nhiều mặt giữa nhân dân, giới doanh nghiệp và các tổ chức của hai bên.

Quan hệ kết nghĩa chính thức được thiết lập khi đại diện có thẩm quyền của hai bên (thường là người đứng đầu cơ quan hành chính cao nhất) ký kết văn bản hợp tác (có thể dưới nhiều hình thức: bản ghi nhớ, thỏa thuận…)”.

Vậy, “bản ghi nhớ” được ký bởi ông Nguyễn Vũ Tú, Giám đốc Sở Ngoại vụ TP.HCM và bà Starr Hurley, Giám đốc Văn phòng phụ trách Quan hệ Kết nghĩa Sacramento, không thuộc nội dung của ký kết “quan hệ kết nghĩa”. Đó mới chỉ là một bản ghi nhớ ghi nhận những công việc mà hai bên có thể tiến tới ký kết thỏa thuận nào đó – ví dụ như thỏa thuận về “Quan hệ kết nghĩa”.

Cũng nói thêm, Thống đốc Bang California Jerry Brown trong hôm tiếp đoàn của ông Lê Thanh Hải (17-7-2015), chủ yếu ông Jerry Brown chia sẻ về việc Việt Nam phải đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt.

Nguyễn Gia Định



Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Việt Nam có thật xoay trục sang Mỹ không?

Đáp lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trên đường sang Mỹ. Phi cơ Việt Nam Airline chở ông và phái đoàn Việt Nam đáp tại phi trường quân sự Andrew lúc 8 giờ sáng ngày 6 tháng 7 năm 2015. Quan chức Hoa Kỳ ra đón tiếp ông Trọng là các ông Scot Marciel, quyền trợ lý ngoại trưởng, Cục Trưởng cục lể tân Peter Selfridge, và Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius.

Bánh ít đi, bánh quy lại?

Tại sao ngày nay Nguyễn Phú Trọng muốn được mời sang thăm Mỹ? Bởi vì đứng trước bối cảnh chính trị trong vùng Á Châu, với động thái hung hăng ngày càng ngang ngược của Trung Quốc, Việt Nam tìm đường liên minh với một cường quốc nào, hay phe nhóm quốc gia nào, có đủ khả năng và thế lực, có thể làm giảm tham vọng của Bắc Kinh, cường quốc đó là Mỹ.

Cho nên chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ nhằm mục đích tìm sự hợp tác quân sự song phương với Hoa Kỳ. Ngược lại Mỹ cũng cần kết thân với một Việt Nam đang tranh chấp quyết liệt chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông, khi Hoa Kỳ xoay trục về Châu Á Thái Bình Dương.

Những lời đường mật của Trung Quốc luôn nhắc nhở 16 chữ vàng và 4 cái tốt trở thành vô nghĩa đối với các đảng viên thân Bắc Kinh. Họ đã thức tỉnh, nhóm lãnh đạo bảo thủ nhận thấy đàn anh cùng chí hướng và tư tưởng đang chủ trương thôn tính Việt Nam.

Mặt khác hướng về Tây phương cũng là yêu cầu của một nhóm trí thức đảng viên cao cấp chủ trương từ lâu, và nay dư luận quần chúng đã công khai phát biểu qua cuộc khảo sát của trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy có 69% người Việt Nam được hỏi trả lời rằng, quan hệ thương mại với Mỹ quan trọng hơn là với Trung Quốc. Và 89% người Việt Nam nói được gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là điều rất tốt cho đất nước.

Lợi ích là vĩnh viễn

Trong bối cảnh đó báo Washington Post tiết lộ, chính quyền Obama cho biết Hà Nội bài tỏ nguyện vọng tăng cường quan hệ kinh tế và quân sự với Hoa Kỳ và Tổng thống Obama đã đáp ứng mong đợi đó. Phải chăng do ông Phạm Quang Nghị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, người được Nguyễn Phú Trọng tin cẩn, đã đến Mỹ ngày 21-7-2014 để vận động cho ông Nguyễn Phú Trọng được mời và được tiếp đón một cách đặc biệt khi ông thăm viếng Hoa Kỳ. Sau đó ngày 20-3-2015 Bộ trưởng công an Trần Đại Quang lại sang Hoa Kỳ nên giới quan sát quốc tế cho đó là “một bước đột phá trong quan hệ Mỹ-Việt”.

Tiến sĩ Jonathan London, chuyên gia về quan hệ Mỹ-Việt từ Hong Kong nhận định với VOA rằng: “Chúng ta đang chứng kiến hai nước cựu thù Hoa Kỳ và Việt Nam đã cùng nhau đi đến một nơi có quyền lợi của cả hai bên”.

Lord Palmerston nổi tiếng vì đã từng nói: “Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn, chúng ta cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chúng ta chỉ có các lợi ích vĩnh viễn”. Ngày nay Việt Nam và Hoa Kỳ đang theo đuổi lợi ích của mình. Xưa nay vì lợi ích các đồng minh hay kẻ thù cũng đã thay đổi lập trường. Phải chăng quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ-Trung Quốc đang đổi thay.

Người ta còn nhớ năm 1972 trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon được long trọng tiếp rước tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã tuyên bố: “kẻ thù ngày trước cũng có thể trở thành người bạn ngày hôm sau”. Liền các bản khẩu hiệu chống “đế quốc Mỹ là kẻ thù số một của đất nước ta”, treo dán đầy đường lần lược biến mất.

Giáo sư Alexander L. Vuving thuộc trung tâm nghiên cứu an ninh Châu Á Thái Bình Dương tại Honolulu còn so sánh chuyến đi Trung Quốc của Tổng thống Nixon năm 1972 đã “mở một cuộc diện mới” trong tam giác quan hệ Liên Sô-Trung Quốc-Mỹ.

Ngày nay ông nghĩ chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng cũng sẽ mở ra một cuộc diện mới trong tam giác quan hệ Việ-Trung-Mỹ. Trong khi đó Giáo sư Carl Thayer viết bài “Việt Nam xoay trục sang Mỹ” đăng trên trang web the Diplomat, nhận định rằng: Việt Nam có thể coi Hoa Kỳ là một đối tác đáng tin cậy, theo ông Thayer thì sự đánh giá nầy sẽ được đưa vào các văn kiện chính sách chiến lược quan trọng được soạn thảo và sẽ được đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII thông qua.

Nhân quyền và tự do tôn giáo

Tuy nhiên vẫn có người cho rằng Hoa Kỳ sẽ tìm cách lật đổ chế độ thông qua việc khai thác vấn đề nhân quyền tự do tôn giáo như một đòn bẩy thúc đẩy việc biến đổi Việt Nam thành một nền dân chủ đa đảng. Điều đó Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định trong cuộc phỏng vấn tuần rồi với VnEpress: “Hai nước Việt Mỹ đã đạt được sự thống nhất không còn muốn là kẻ thù của nhau, không xâm phạm, xâm hại những lợi ích chiến lược của nhau và đặt biệt là cam kết không bao giờ đem chiến tranh đến cho nhau”.

Nghi lễ Tổng thống Obama và Phó Tổng thống Joe Biden tiếp đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trong ngày 7-7-2015 tại phòng Bầu dục Nhà Trắng, mang ý nghĩa biểu tượng và trọng thị, mặc dù ông Trọng không phải là nguyên thủ quốc gia. Như vậy cũng là một cách Mỹ công khai chấp nhận đảng cộng sản Hà Nội là nhà cầm quyền chính thức của Việt Nam.

Hai bên đã có các cuộc thảo luận thẳng thắng về các vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo. Tổng thống Obama nói, dù Hoa Kỳ và Việt Nam còn khác biệt về học thuyết chính trị nhưng hai nước đang làm sâu sắc mối quan hệ hợp tác trong các lãnh vực y tế, khí hậu và các vấn đề khác. Riêng Nguyễn Phú Trọng công khai tiết lộ hai bên trao đổi về những vấn đề vướng mắc như đàm phán và ký kết TPP, nhân quyền, tình hình diễn biến mới trên Biển Đông và hai bên đồng ý thúc đẩy mối quan hệ toàn diện trong nhiều lãnh vực đặc biệt an ninh và quốc phòng.

Trong cuộc tiếp xúc với báo chí, hai vị Tổng thống Obama và Nguyễn Phú Trọng xác nhận sự hợp tác toàn diện, đặc biệt ông Nguyễn Phú Trọng nói rõ ràng với Tổng thống Obama một cách rất tự nhiên thành thật: “Quá khứ chúng ta không quên, nhưng tương lai do chính chúng ta xây dựng”. Một cách xác định ý muốn Việt-Mỹ sẽ bắt tay xây dựng tương lai. Vậy ông Trọng cố tình quên 16 chữ vàng của Trung Quốc, “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, hay là như người tây phương có câu nói mỉa mai “thành thật tiếp nối” (sincérité successive). Rồi đây ông sẽ trả lời với Trung Quốc như thế nào hay là Việt Nam đã dứt khoát xoay trục về Mỹ quốc?

Hai vấn đề chủ yếu đối với Việt Nam là được gia nhập TPP, và hợp tác quốc phòng song phương nhằm chống lại sự đàn áp của Bắc Kinh. Nhưng khúc xương khó nuốt là nhân quyền.

Cộng sản hứa và cộng sản làm

Cho dù Nguyễn Phú Trọng có hứa hẹn để cho cuộc thảo luận với Tổng thống Obama dược tốt đẹp, thì vấn đề nhân quyền nầy vẫn phải được Bộ chính trị và Trung ương đảng mổ xẻ, kiểm điểm lại và sẽ kềm hãm, hoặc cấm đoán. Bởi vì một khi có quyền tự do ngôn luận, có quyền biểu tình phản đối ôn hòa, có quyền tự do hội họp, có quyền đình công… thì đảng sẽ mất một phần lớn quyền toàn trị.

Đã có lần ông chủ tịch Nguyễn Minh Triết, từng hứa hẹn với Tổng thống George W. Bush tháng 6 năm 2007, rằng Việt Nam sẽ cải thiện nhân quyền, nhưng khi ông về Việt Nam thì nhà nước do ông lãnh đạo đàn áp nhân quyền mạnh bạo hơn.

Trước khi ông Triết đi Mỹ, Việt Nam đã thả nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Vũ Bình do yêu cầu từ phía Mỹ để chứng minh Việt Nam trên con đường tôn trọng nhân quyền. Nhưng sau đó họ bắt lại nhiều người hơn. Lần nầy trước khi Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ, Hà Nội cũng đã thả Điếu cày Nguyễn Văn Hải do chính Tổng thống Obama đích thân kêu gọi phải thả từ lâu.

Cho nên ngườii ta có thể hình dung trong cuộc đàm phán về việc gia nhập TPP, Việt Nam có thể cam kết một số điều thuận cho phái đoàn Mỹ và quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận. Nhưng sau đó Hà Nội có giữ lời cam kết hay không? Đó lại là vấn đề khác, một vài quan chức Mỹ nghĩ rằng chúng ta phải chờ xem. Từ trước đến nay sự tráo trở, mưu mẹo, chối bỏ lời cam kết là thói quen trắng trợn của cộng sản.

Tóm lại Việt Nam đứng trước hiện tình chính trị phải đương đầu với sự đe dọa của Trung Quốc, nhiều tiền, mạnh thế lực quân sự, lắm mưu mẹo nên Hà Nội không có con đường nào khác là phải đổi mới tư duy, phải tìm đường hợp tác với Mỹ. Trong trường hợp đó Việt Nam sẽ phải cải thiện nhân quyền, chế độ sẽ cởi mở hơn, và thêm một lần nữa phải “đổi mới để sống còn”.

Hay là chuyến đi nầy của Nguyễn Phú Trọng chỉ có mục đích tạo uy thế cho cá nhân và phe nhóm của ông trong kỳ đại hội đảng lần thứ 12 mà thôi. Nếu quả thật như vậy thì sẽ vô cùng bất hạnh cho dân tộc và đất nước Việt Nam.

8-7-2015

Võ Long Triều


Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

Những nỗi sợ vô hình phi lý của người Việt ở biển Đông

Bài viết của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ phân tích về một số thông tin, phát ngôn theo ông là không chuẩn của một bộ phận người Việt về biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Tôn trọng góc nhìn đa chiều và góp thêm tiếng nói vào việc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trong Biển Đông, xin trân trọng gửi đến quý độc giả bài phân tích của Ts Trần Công Trục.

***

Theo dõi tin tức về Biển Đông những ngày qua, cá nhân tôi rất mừng khi thấy truyền thông nước nhà bám sát mọi sự kiện, thường xuyên đưa tin, cập nhật các diễn biến và bình luận xung quanh vấn đề Biển Đông.

Tuy nhiên cũng có lúc cá nhân tôi cảm thấy rất lo lắng, thậm chí rất bức xúc, thất vọng khi tiếp cận những thông tin, phát biểu, bình luận… về Biển Đông, trong đó còn tồn tại những sai phạm, hớ hênh rất nguy hiểm, bất lợi cho công cuộc đấu tranh gìn giữ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam trong Biển Đông.

Những sai phạm, hớ hênh này xuất phát từ những động cơ khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy hầu hết đều bắt nguồn từ sự yếu kém về trình độ, kiến thức, năng lực, từ sự thiếu hụt về thông tin, nhất là những khái niệm khoa học tự nhiên, pháp lý, chính trị, lịch sử cơ bản, về quan điểm, chủ trương, chính sách của Việt Nam cũng như của các bên liên quan.

Bên cạnh có nhiều tiếng nói có tầm, có tâm, đầy sức thuyết phục được cộng đồng chia sẻ, có tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phức tạp hiện nay, vẫn còn những quan điểm thể hiện sự hoài nghi, thậm chí lo sợ một cách vô lý mà tôi xin được chia sẻ ở đây để cùng nhau rút kinh nghiệm làm tốt hơn trong thời gian tới.

Một là không hiểu, không biết hoặc không nắm chắc chính sách, chủ trương, quan điểm cơ bản của Nhà nước Việt Nam ở Biển Đông.

Ngày 6/6 báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi trẻ đưa tin một tàu dầu khí Trung Quốc xuất hiện cách bờ biển Bình Thuận 40 hải lý. Tờ Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: "Sáng nay 6-6, vào khoảng 7 giờ 15 phút, Tàu thăm dò Dầu khí Tân Hải 517 (Binhai517) của tập đoàn Dầu khí Hải Dương Trung Quốc di chuyển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, ở khu vực tây nam đảo Phú Quý (Bình Thuận), cách đảo vào khoảng 20 hải lý và bờ chừng 40 hải lý (nằm giữa bờ và đảo)."

Cũng thông tin này trên tờ Tuổi trẻ cho hay: "Theo nguồn tin riêng của Tuổi Trẻ, tàu Tân Hải 517 đang trên đường di chuyển đến Vịnh Thái Lan. Cảnh sát biển Việt Nam vẫn đang cho tàu theo dõi hành trình của tàu Tân Hải, tuy nhiên chưa phát hiện dấu hiệu bất thường.

Theo Công ước của Liên hiệp quốc về luật biển 1982, tàu bè nước ngoài có quyền di chuyển trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước. Trước đó, sáng 6-6 tàu thăm dò dầu khí mang tên Tân Hải (Bin Hai) 517 đã xuất hiện tại vùng biển Bình Thuận. Vị trí tàu Tân Hải 517 xuất hiện cách đảo Phú Quý khoảng 20 hải lý về phía tây nam, cách bờ biển Bình Thuận - Bà Rịa Vũng Tàu khoảng 40 hải lý."

Ngày 7/6 tờ Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh bình luận tiếp: "Sao không bắt giữ tàu dầu khí Trung Quốc?" Lý do được phóng viên đưa ra là: "Trên thực tế, tàu Tân Hải 517 chưa có bất kỳ dấu hiệu vi phạm pháp luật Việt Nam và quốc tế. Theo Công ước Luật Biển 1982, tàu bè các nước có quyền qua lại vô hại qua lãnh hải của nước khác. Lãnh hải là khoảng cách 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Nôm na là từ bờ, từ chỗ nước tiếp giáp với đất liền hay từ chỗ nhô lên khi thuỷ triều xuống."

Sự thật là, nếu đúng như hải trình được 2 báo đã đưa thì con tàu Trung Quốc này đã xâm phạm VÙNG NỘI THỦY của Việt Nam theo "Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam" ngày 12-11-1982.

Theo đó, “đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường thẳng gãy khúc nối từ điểm AO (nằm trên đường thẳng nối đảo Thổ Chu của Việt Nam đến đảo Polo Wai của Căm-pu-chia) đến điểm A11 (đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị) có tọa độ ghi trong phụ lục kèm theo Tuyên bố này”.

Luật Biển Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2012 tiếp tục công nhận tuyên bố về đường cơ sở này vẫn có hiệu lực pháp lý.

Cụ thể là Hòn Hải nằm trong nhóm đảo Phú Quý có tọa độ 9058'0/ 109005'0 chính là điểm A6 trên đường cơ sở được dùng tính chiều rộng lãnh hải mà Nhà nước Việt Nam công bố năm 1982 đến nay vẫn đang có hiệu lực pháp lý.

Như vậy, tàu Tân Hải 517 Trung Quốc đã đi qua giữa đảo Phú Quý và bờ biển Việt Nam là hoàn toàn là đi trong VÙNG NỘI THỦY của Việt Nam. Con tàu này đã vi phạm Điều 10 Luật Biển Việt Nam quy định chế độ pháp lý của nội thủy: Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thuỷ như lãnh thổ đất liền.

Có thể do người đưa tin mắc lỗi về mặt nghiệp vụ, nhưng điều đáng nói là nguồn tin cung cấp cho 2 tờ báo trên không thể không biết thế nào là vùng nội thủy, thế nào là vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế đã được Nhà nước Việt Nam công bố bao năm nay. Đây là một nhầm lẫn hết sức nguy hại.

Rõ ràng khi tàu Tân Hải 517 thuộc 1 tập đoàn nhà nước Trung Quốc, thực hiện "nhiệm vụ nhà nước" đi qua vùng nội thủy của ta nếu đúng như 2 tờ báo phản ánh, mà ta không có biện pháp đấu tranh trên thực tế theo đúng thủ tục pháp lý nhằm buộc con tàu đó phải tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, ngoài việc chỉ cử tàu Kiểm ngư, Cảnh sát biển ra theo dõi không thôi là không thích hợp;

Còn trên phương diện ngoại giao, pháp lý nếu không chính thức phản đối hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ này thì vô hình chung chính chúng đã đã phủ nhận chính đường cơ sở mà Nhà nước Việt Nam tuyên bố rộng rãi trước thế giới. Như vậy, liệu Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Biển quốc tế 1982 có được tôn trọng và có hiệu lực không?

Tất nhiên ai cũng biết để thực thi pháp luật, để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của chúng ta trên biển trong tình hình hiện nay là vô cùng phức tạp, khó khăn, không phải cứ muốn là có thể làm ngay được.

Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc chúng ta lại vô tình hay cố ý tìm lý do “biện hộ” cho hành vi xâm phạm chủ quyền mà con tàu Trung Quốc gây ra khi ngang nhiên đi qua vùng nội thủy của Việt Nam, rằng con tàu này có quyền tự do hàng hải qua vùng đặc quyền kinh tế theo UNCLOS 1982. Chắc chắn ai cũng biết điều này sẽ gây tác hại như thế nào trong hoàn cảnh hiện nay.

Bởi vì, Trung Quốc đang triển khai nhiều mũi tiến công để thực hiện cuộc “xâm lược mềm” trong Biển Đông. Mỗi đường đi nước bước của họ ở Biển Đông đều có tính toán kỹ lưỡng. Nhìn thoáng qua tưởng chừng như vô hại như vụ hạ đặt giàn khoan 981 năm nay, vụ tàu Tân Hải 517 đi vào vùng nội thủy. Nếu ta không lên tiếng phản đối, sau này ra trước bàn đàm phán hoặc cơ quan tài phán quốc tế, ta sẽ ăn nói làm sao?

Nhân đây, tôi cũng xin có thêm một bình luận nữa với hoạt động nghiệp vụ của báo Tuổi trẻ. Tôi đã có rất nhiều lần thẳng thắn góp ý kiến về việc khi đưa tin các hoạt động trên vùng biển mà tên gọi đã trở thành một nội dung rất được quan tâm với những động cơ khác nhau. Thậm chí Trung Quốc còn sử dụng tên gọi để nhận vơ hầu hết vùng biển này là của họ, đến nỗi có người gọi đó là một “cuộc xâm lăng” bằng việc đặt tên.

Vì vậy, người ta rất thận trọng và cảnh giác khi sử dụng tên gọi cho vùng biển này để tránh đi những sơ hở mà Trung Quốc có thể khai thác nhằm phục vụ cho mục đích của họ trên mặt trận tuyên truyền… Việt Nam gọi vùng biển này bằng tên riêng là Biển Đông. Đó là tên gọi truyền thống và cũng là tên gọi chính thức của Nhà nước Việt Nam đối với vùng biển này, đã được thể hiện trong hầu hết các văn bản, tài liệu đối nội đối ngoại.

Biển Đông phải viết hoa cả hai từ, không phải Đông là danh từ riêng nên mới viết hoa, còn biển là danh từ chung nên phải viết thường. Đây là tên gọi được Chính phủ ta đăng ký chính thức với các cơ quan, tổ chức quốc tế bằng văn bản. Cá nhân tôi mỗi khi đọc thấy bản tin nào viết "biển Đông" đều có gọi điện góp ý, tuy nhiên không hiểu sao họ vẫn không sửa.

Đặc biệt khi dịch tên Biển Đông sang tiếng nước ngoài, về mặt pháp lý chúng ta phải ghi là "Biển Đông sea" hoặc "Bien Dong Sea", không phải "East Sea" như một số tài liệu đang lưu hành hiện nay. Tôi có tìm hiểu lý do tại sao các tờ báo này không sửa chữa được, có nhà báo cho biết, vì đây là thực hiện theo chỉ đạo của lãnh đạo địa phương…

Thế mới biết, không phải việc gì cũng được tuân thủ theo đúng pháp luật, mặc dù khẩu hiệu ở đâu cũng có thể thấy: Sống và làm việc theo Hiến pháp, Pháp luật!

Hai là có những quan điểm tỏ ra thiếu tự tin đối với chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông dẫn đến tình trạng lúng túng khi xử lý các tình huống.

Trong thời gian gần đây dư luận Việt Nam sôi sục dõi theo những diễn biến mới nhất trên Biển Đông khi Trung Quốc liên tục leo thang bồi lấp, xây đảo nhân tạo và quân sự hóa bất hợp pháp 7 bãi đá họ xâm lược, chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam từ năm 1988, 1995 đến nay.

Khi cộng đồng quốc tế bày tỏ quan ngại, đặc biệt là Hoa Kỳ đã có những động thái can thiệp ngăn chặn Bắc Kinh leo thang bành trướng trên Biển Đông, dư luận nhiều người phấn khởi cho rằng đó là điều kiện thuận lợi cho ta. Tuy nhiên cũng có những lo ngại về việc Mỹ can thiệp vào Biển Đông là vì lợi ích của họ chứ không phải giúp Việt Nam.

Phải khẳng định rằng, Mỹ can thiệp vào Biển Đông đầu tiên là vì lợi ích địa chính trị, vị thế cường quốc toàn cầu cũng như các lợi ích kinh tế - thương mại của họ. Mặt khác bản thân Việt Nam nhiều lần đã khẳng định rõ, Việt Nam không liên kết nước này để chống nước kia. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.

Sự quan tâm, can thiệp của Mỹ vào Biển Đông nếu đặt trong bối cảnh hiện nay thì có thể có những yếu tố có lợi nào đó giúp cho cuộc đấu tranh chung của các nước trong khu vực nhằm ngăn chặn những hành xử bất chấp pháp lý và đạo lý của Trung Quốc.

Mọi động thái trong quan hệ quốc tế hiện đại của bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của chính quốc gia, dân tộc đó, điều này không có gì sai, chúng ta cũng vậy. Tuy nhiên, làm thế nào để tận dụng các xu thế quốc tế có lợi nhất cho ta trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo là điều chúng ta cần lưu tâm và đừng bỏ lỡ.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Ngày nay thực tế Hoàng Sa và 7 bãi đá ở Trường Sa đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp, vốn chúng không thích hợp cho đời sống con người và không có đời sống kinh tế riêng, nên theo UNCLOS 1982, không thể được hưởng quy chế 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế.

Mặt khác, 7 bãi đá và rặng san hô ở Trường Sa hoàn toàn ngập dưới mực nước biển khi thủy triều lên mà Trung Quốc bồi lấp xây dựng đảo nhân tạo bất hợp pháp không được hưởng quy chế lãnh hải 12 hải lý dành cho các đảo. Vì vậy Mỹ có quyền đi qua phạm vi 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo Trung Quốc đang bồi lấp là có thể hiểu được. Tất nhiên chúng ta không ủng hộ bất kỳ bên nào lợi dụng để gây đối đầu, xung đột vũ trang.

Khi nói về căng thẳng trên Biển Đông, quan điểm của các nước phương Tây cũng như truyền thông quốc tế đều gọi khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam là "vùng biển tranh chấp". Hơn ai hết, chúng ta là phải công khai giải thích cho dư luận quốc tế biết bản chất của thực trạng tranh chấp ở đây là gì, ai tranh chấp với ai, tranh chấp vào thời điểm nào?

Chúng ta biết rằng chí ít là từ thế kỷ 17, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu, xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ khi chúng con là đất vô chủ (res- nullius). Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sực, rõ ràng, hòa bình và liên tục, phù hợp với các nguyên tắc của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế.

Giữa và cuối thế kỷ 20 khi tình hình thế giới và Việt Nam có nhiều biến động lớn về chính trị, một số nước trong khu vực đã nhảy vào chiếm đóng, thậm chí là cất quân xâm lược các đảo, bãi đá và rặng san hô trong 2 quần đảo của Việt Nam, điển hình là Trung Quốc. Như vậy là Trung Quốc và một số bên "nhảy vào tranh chấp" với Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa không phải đất vô chủ!

Bởi vậy chúng ta cần phải hiểu rất rõ điều này để giải thích rõ ràng trước dư luận quốc tế, phản ứng kịp thời và thích hợp trước các động thái xâm phạm chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi thăm Việt Nam đã kêu gọi các bên bao gồm Việt Nam ngừng các hoạt động xây dựng, cải tạo ở Trường Sa, chúng ta nên hiểu đề xuất này thế nào và phản ứng ra sao?

Đầu tiên phải khẳng định Trường Sa hoàn toàn thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam, các bên nhảy vào tranh chấp và chiếm đóng bất hợp pháp, biến vùng biển đảo không tranh chấp thành có tranh chấp.

Cần thiết ta có thể cung cấp cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và các bên quan tâm hồ sơ chứng lý của Việt Nam về chủ quyền đối với hai quần đảo này. Đó mới là việc chúng ta cần và nên làm, nên khẳng định dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế. Chúng ta không thừa nhận tình trạng tranh chấp chủ quyền, trong đó Việt Nam là một bên tranh chấp ngang bằng với các bên tranh chấp khác.

Thứ hai, từ thế kỷ 17 người Việt đã có các hoạt động xác lập, thực thi chủ quyền và khai thác kinh tế ở 2 quần đảo này. Trên các đảo có các điểm định cư, trú ẩn và đóng quân canh phòng của nhà nước Việt Nam. Việc chúng ta củng cố các công trình quân sự, dân sự ở đây là hết sức bình thường, hoàn toàn không phải câu chuyện "phá vỡ hiện trạng" hay "vi phạm DOC" như Trung Quốc tuyên truyền hoặc quan điểm của một số bên khác.

Chúng ta cần khẳng định những điều chúng ta làm mới là bình thường, đúng đắn, được luật pháp cho phép.

Trung Quốc xâm lược 6 bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam năm 1988 và bãi Vành Khăn năm 1995 là một sự thật. Do đó kẻ cướp không thể đòi bình đẳng với chủ nhà để ngụy biện rằng, Việt Nam xây dựng được thì họ cũng xây dựng được.

Mặt khác, cái Trung Quốc đang xây dựng và bồi lấp là làm thay đổi hoàn toàn diện mạo, cấu trúc các thực thể ở quần đảo Trường Sa chứ không đơn giản là củng cố, cơi nới. Điều này thì chính Mỹ đã thừa nhận.

Việc làm của Việt Nam hoàn toàn không mâu thuẫn gì với DOC hay các quy định của luật pháp quốc tế. Xin nhắc lại một lần nữa, Hoàng Sa và Trường Sa không phải đất vô chủ mà là lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam đang bị một số bên chiếm đóng bất hợp pháp!

Do đó cái gọi là "tranh chấp" ở đây là người ta nhảy vào tranh chấp với Việt Nam chứ người Việt không tranh giành của ai.

Từ bài học lịch sử của Tổ tiên ta trong ứng xử với Trung Quốc, cũng như với những bài học đương đại trong quan hệ với Trung Quốc, người Việt Nam ta luôn luôn có thiện chí và rất khiêm tốn, nhưng không hèn yếu, bạc nhược, đầu hàng… Chúng ta biết phát huy thế mạnh của mình, bởi chúng ta có bản lĩnh và có chân lý, không có gì đáng ngại.

Chỉ ngại chính chúng ta còn chưa đủ kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, chưa nắm rõ, hiểu thấu về các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, dẫn đến sự thiếu tự tin, thậm chí là lo lắng đến mức vô lý, ảnh hưởng trực tiếp đến công cuộc đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ: đất, biển, trời của Tổ tiên để lại.

Tôi mong rằng, chúng ta không nên chỉ biết có nhiệt huyết, nhiệt tình mà cần phải học hỏi để có kiến thức, kinh nghiệm, có bản lĩnh vững vàng. Có như vậy, chúng ta mới không bao giờ bị liệt vào hàng ngũ của “những kẻ phá hoại” trong cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ này….

Ts Trần Công Trục


Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

Điều luật 88, bộ luật hình sự: thế nào là chống Nhà nước?

Theo điều luật này, sẽ phạm “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, khi: a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước CHNXHCN Việt Nam.

Tội suy thoái tư tưởng chính trị?

Tác giả Đức Giang có bài viết “Điều 88 Bộ luật Hình sự với quyền con người và quyền công dân” http://www.qdnd.vn/…/dieu-88-bo-luat-hinh-su-vo…/224360.html. Theo đó, tác giả nhìn nhận:

“Không phủ nhận rằng ở Việt Nam còn nhiều vấn đề xã hội phải giải quyết, thậm chí có những bức xúc xã hội, nhất là tình trạng phân hóa giàu nghèo, “lợi ích nhóm”, tình trạng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống như Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra”.

“Hoàn thiện thể chế, mở rộng hơn nữa các quyền tự do dân chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, tăng cường quyền được thông tin, quyền giám sát, quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của người dân là một yêu cầu tất yếu, để phát triển mọi mặt xã hội ta. Đồng thời đó cũng là biện pháp cơ bản để chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, công chức trong bộ máy của Đảng và Nhà nước”.

“Khắc phục những mặt tiêu cực này là một công việc lớn lao, phức tạp, lâu dài, không thể làm trong một sớm, một chiều”.

Lập luận từ các cơ quan công tố, đồng ý quyền tự do ngôn luận là một trong những điều kiện sinh tồn của xã hội và do đó không thể xem hành vi này là tội phạm được.

Tuy nhiên phải thấy rằng, tội phạm là một phạm trù mang tính giai cấp, việc xác định tội phạm là tùy thuộc vào quan điểm của giai cấp nắm chính quyền Nhà nước. Bất kỳ hành vi nào, dù thực hiện dưới lời nói hay việc làm mà đe dọa sự tồn tại của Nhà nước, đều coi là hành vi nguy hiểm, cần phải có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

Thế nào là chống Nhà nước?

TS. Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong bài viết trênhttp://noichinh.vn/…/dieu-258-cua-bo-luat-hinh-su-nam-1999…/, lập luận:

“Điều 88, Điều 258 Bộ Luật Hình sự, quy định về các tội phạm nhằm bảo vệ an ninh quốc gia là hoàn toàn phù hợp với Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. (…)

Điều 88 Bộ Luật Hình sự không nhằm chống lại quyền tự do ngôn luận của người dân mà nhằm, một mặt nghiêm trị những hành vi tuyên truyền có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặt khác chủ động phòng ngừa các hành vi tương tự gây tổn hại đến Nhà nước và chế độ xã hội”.

Đầu tiên có thể nói ngay rằng ở Việt Nam, Hoa Kỳ và Đức đều có điều luật hình sự quy định về tội gọi là “chống nhà nước/ chính quyền” nhưng định nghĩa một hành vi thế nào gọi là “chống nhà nước/ chính quyền” hoàn toàn khác biệt.

Ở Mỹ, điều luật đề cập tới hành động “chống chính quyền” quy định ở điều 18 USC Sec. 2385 Ad...vocating overthrow of Government (Tội vận động lật đổ chính quyền) nguyên văn tiếng Anh như sau:

Whoever knowingly or willfully advocates, abets, advises, or teaches the duty, necessity, desirability, or propriety of overthrowing or destroying the government of the United States or the government of any State, Territory, District or Possession thereof, or the government of any political subdivision therein, by force or violence, or by the assassination of any officer of any such government; or Whoever, with intent to cause the overthrow or destruction of any such government, prints, publishes, edits, issues, circulates, sells, distributes, or publicly displays any written or printed matter advocating, advising, or teaching the duty, necessity, desirability, or propriety of overthrowing or destroying any government in the United States by force or violence, or attempts to do so; or Whoever organizes or helps or attempts to organize any society, group, or assembly of persons who teach, advocate, or encourage the overthrow or destruction of any such government by force or violence; or becomes or is a member of, or affiliates with, any such society, group, or assembly of persons, knowing the purposes thereof - Shall be fined under this title or imprisoned not more than twenty years, or both, and shall be ineligible for employment by the United States or any department or agency thereof, for the five years next following his conviction. If two or more persons conspire to commit any offense named in this section, each shall be fined under this title or imprisoned not more than twenty years, or both, and shall be ineligible for employment by the United States or any department or agency thereof, for the five years next following his conviction. As used in this section, the terms "organizes" and "organize", with respect to any society, group, or assembly of persons, include the recruiting of new members, the forming of new units, and the regrouping or expansion of existing clubs, classes, and other units of such society, group, or assembly of persons.

Tạm dịch: “Bất cứ người nào cố tình hoặc chủ ý vận động, tiếp tay, khuyên bảo người khác, hoặc giảng dạy trách nhiệm, sự cần thiết, sự khao khát, hoặc có hành vi lật đổ hoặc hủy diệt chính quyền liên bang Hoa Kỳ hoặc chính quyền bất kỳ tiểu bang, địa hạt, quận bằng vũ lực, hoặc bạo lực hoặc bằng cách mưu sát bất kỳ nhân viên chính quyền của bất kỳ chính quyền cấp nào tại Hoa Kỳ.

Bất cứ người nào có mục tiêu hành động để lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào bằng cách in ấn, xuất bản, chỉnh sửa, phát hành, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày nơi công công bất kỳ tài liệu viết hoặc được in nào có nội dung vận động, quảng bá hoặc giảng dạy trách nhiệm, sự cần thiết, sự khao khát lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Hoa Kỳ bằng vũ lực hoặc bạo lực hoặc thử làm những hành vi trên.

Bất kỳ ai tổ chức hoặc giúp đỡ hoặc cố gắng tổ chức bất kỳ cộng đồng, nhóm, hoặc hội họp những người giảng dạy, vận động, hoặc khuyến khích việc lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Hoa Kỳ bằng vũ lực hoặc bạo lực; hoặc trở thành hoặc đã là thành viên hoặc là một chi nhánh của các cộng đồng, nhóm hoặc hội họp cùng những người có các hành vi đó sẽ bị phạt vì nội dung điều luật này hoặc bị bỏ tù không qua 20 năm, hoặc cả hai hình thức này, và sẽ bị từ chối tư cách làm việc cho chính quyền Hoa Kỳ hoặc bất kỳ bộ phận, cơ quan nào của chính quyền trong vòng 5 năm sau khi bị kết tội…”.

Bất kỳ ai đọc nguyên văn điều luật này của Hoa Kỳ cho dù là dân không chuyên về luật cũng hiểu được một điều cơ bản rằng Mỹ cấm tuyệt đối những hành động lật đổ chính quyền bằng bạo động dưới mọi hình thức.

Cho đến nay, chưa từng có bất kỳ bản án nào được tuyên ở Hoa Kỳ dành cho một người hoạt động một cách hòa bình, đòi hỏi dân chủ, tôn trọng nhân quyền thậm chí là đòi tổng thống từ chức hoặc bị bị bỏ tù vì ủng hộ chủ nghĩa cộng sản trên đất Mỹ.

Và như vậy, câu chuyện một vị Linh mục ở Đồng Nai bày tỏ mơ ước cá nhân của mình trên trang facebook, lại bị chụp mũ “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, là bằng chứng rõ ràng nhất của chuyện công khai vi phạm vào Điều 3, Hiến pháp 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Nguyễn Tuấn


Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2015

Quyền của ông trưởng bản nội chính tỉnh uỷ to đến đâu?

Ngày 12/02/2015 ông Nguyễn Thái Học đã chủ trì cuộc họp tại trụ sở Ban nội chính Tỉnh ủy Phú Yên, thành phần cuộc họp gồm có 05 người trong Ban Nội chính, lãnh đạo Sở tư pháp tỉnh Phú Yên và tất cả các thành viên Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên.

Ông Nguyễn Thái Học gay gắt khi tiếp tục yêu cầu phải giải thích bằng văn bản vì sao không thu hồi thẻ luật sư của ông Võ An Đôn (https://www.facebook.com/saigonpaper/videos/858636744213148/?__mref=message)

Người nghe đoạn băng dễ cảm nhận quyền của ông Nguyễn Thái Học quá to, dường chừng đứng trên cả giám đốc sở tư pháp và chủ nhiệm đoàn luật sư.

Hành vi này của ông Nguyễn Thái Học cho thấy dấu hiệu vi phạm vào Quy định 183-QĐ/TW, và Quyết định số 2883-QĐ/TU.

Theo văn bản có tên “Quy định 183-QĐ/TW năm 2013 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương”, do ông Lê Hồng Anh thay mặt Ban bí thư Ban Chấp hành Trung ương ký ban hành ngày 08 tháng 4 năm 2013, phần nhiệm vụ được ghi như sau:

1- Nghiên cứu, đề xuất

- Chủ trì hoặc phối hợp tham mưu, đề xuất xây dựng chủ trương, nghị quyết của tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng.

- Chủ trì hoặc phối hợp tham mưu, đề xuất cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng đối với đảng bộ tỉnh.

- Chủ trì xây dựng các đề án về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, báo cáo tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy xem xét, quyết định.

- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan đề xuất với ban thường vụ tỉnh ủy cho chủ trương về hoạt động của các cơ quan nội chính ở địa phương (tòa án, kiểm sát, tư pháp, thanh tra, công an, quân sự, hải quan), hội luật gia…

- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan đề xuất với ban thường vụ tỉnh ủy, thường trực tỉnh ủy cho chủ trương, định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

2- Hướng dẫn, kiểm tra

- Chủ trì hoặc phối hợp hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc tỉnh ủy thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng ở địa phương.

- Phối hợp với các cơ quan liên quan giúp tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy kiểm tra, giám sát các cơ quan nội chính địa phương thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng.

3- Thẩm định

Chủ trì hoặc phối hợp thẩm định các đề án về lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng trước khi trình tỉnh ủy và ban thường vụ tỉnh ủy.

4- Tham gia với ban tổ chức tỉnh ủy về công tác cán bộ theo phân cấp; tham gia với các cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm một số chức danh tư pháp theo quy định.

5- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do ban thường vụ tỉnh ủy, thường trực tỉnh ủy giao.

Như vậy, ông Nguyễn Thái Học được phép “định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước” (trích Điều 2.1). Tuy nhiên ở đây, ông Nguyễn Thái Học chỉ được trao quyền “thầy dùi” với ông/ bà bí thư tỉnh ủy Phú Yên. Ông Học không được phép “thể hiện quyền uy” như những phát biểu hôm 12/02/2015 tại trụ sở của Ban Nội chính tỉnh Phú Yên.

Việc lạm quyền này của ông trưởng ban nội chính, theo như lời kể của Ls Võ An Đôn, là được lặp đi lặp lại. Vị trí trưởng ban nội chính, chắc chắn phải là sự lựa chọn, là cơ cấu rất kỹ lưỡng từ cấp Ban bí thư của Trung ương Đảng. Do vậy, cần thiết xem xét ai đã chống lưng để ông Nguyễn Thái Học ngang nhiên lạm quyền trong chuyện “đòi kỷ luật” Ls Võ An Đôn?

Tưởng cũng nên nói thêm, chức năng của Ban nội chính tỉnh ủy “là cơ quan tham mưu của tỉnh ủy mà trực tiếp, thường xuyên là ban thường vụ tỉnh ủy, thường trực tỉnh ủy về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng”. (Trích Điều 1, Quy định 183-QĐ/TW năm 2013).

Tất cả các nội dung trên còn được nhắc lại tại Quyết định số 2883-QĐ/TU “Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Tỉnh ủy”, do ông Đào Tấn Lộc, bí thư tỉnh ủy Phú Yên ký ban hành ngày 26-7-2013.

Nguyễn Gia Định

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm vụ án "hội đồng công luận công án Bia Sơn"

CỐ TÌNH DỰNG CHUYỆN ĐỂ BUỘC TỘI

Những hình ảnh ở khu du lịch sinh thái Đá Bia. Phải chăng khối tài sản này đã đẩy ông Phan Văn Thu vào vòng lao lý?

Ông Phan Văn Thu (Trần Công), bị kết án tù chung thân về tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ luật Hình sự. Hiện Ông Phan Văn Thu đang bị giam tại Trại giam: Phân trại 2, An Phước, An Thái, Phú Giáo, Bình Dương.

Đại diện gia đình ông Phan Văn Thu nhìn nhận các cơ quan của chính quyền, đã cố tình hình sự hóa một quan hệ thuộc quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Dựng chuyện

Từ chỗ là “tổ chức tôn giáo” với hệ thống tổ chức, kinh sách, giáo lý, truyền đạo thuần túy tôn giáo đã bị kết luận là “tổ chức chính trị”, “tổ chức phản động” nhằm “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân” với “những tài liệu tuyên truyền chống chế độ cộng sản”, “tuyên truyền lôi kéo…”.

Từ “pháp danh” (theo truyền thống Đạo Phật) bị kết án là “bí danh”. Phương châm “Tiền sinh thái, hậu tổ đình”, được hiểu là hoạt động du lịch sinh thái để có tài sản xây dựng tổ đình (trụ sở tổ chức tôn giáo) sau này, bị kết án thành “núp bóng hoạt động du lịch sinh thái để xây dựng căn cứ địa”…

Bà Võ Thị Thanh Thúy (vợ của ông Phan Văn Thu), kể: “Tại Văn bản viết ngày 20/10/2014 gửi các cơ quan chức năng qua các phương tiện truyền thông, tôi đã trình bày rõ: “Tại phiên tòa sơ thẩm, tòa đã không đưa ra được bất kỳ một bằng chứng xác thực nào mà chỉ kết tội bằng những lời nói suông và những bằng chứng ngụy tạo.

Trước tòa, chồng tôi có cho biết trong quá trình lấy lời khai, điều tra viên đã chọn ra 2 trong số những bài thánh ca do chồng tôi sáng tác rồi buộc ông phải chọn một bài làm quốc ca.

Họ lấy hòn đá họa hình con rùa trong khu du lịch sinh thái, rồi ép cho đó là biểu tượng quốc huy của chúng tôi. Chúng tôi không có cờ, họ lại lấy hình tượng viên dung kỳ của đạo Phật rồi ép cho đó là quốc kỳ. Viên đá nhỏ có hình giống chữ Hán mà ban giám đốc nhặt được sau một trận lở đất ở khu sinh thái, điều tra viên đã cho đó là con dấu.

Đó là tất cả bằng chứng của tòa đưa ra để buộc chồng tôi cùng đệ tử của ông vào tội danh âm mưu lật đổ chính quyền. Trước tòa, cả 22 người đều phủ nhận việc họ có quốc huy, quốc kỳ, quốc ca và con dấu để chuẩn bị cho một nhà nước mới. Thế nhưng tòa vẫn giữ lại chi tiết này trong kết luận điều tra.

Chưa dừng lại đó, ngày 17/07/2014, công an tỉnh Phú Yên đã bắt giam thêm 3 người trong tổ làm đá của công ty. Như vậy, tính cho đến nay, công an đã bắt tổng cộng 25 người trong khu du lịch sinh thái Đá Bia, tức trong Hội đồng Công Luật Công án Bia Sơn. Ôi! Thật là trớ trêu và cay đắng làm sao”.

Cướp...

Vụ án cho thấy đây là câu chuyện của 25 người hùn nhau hàng chục năm, đóng góp xây dựng nên cơ sở du lịch đáng giá triệu đô la, có tên “khu du lịch sinh thái Đá Bia”. Rõ ràng là họ không hoạt động chính trị. Lâu nay không ai thấy họ làm chính trị, và cũng không chống chế độ.

Nhưng mà cán bộ cộng sản lại thấy khu vực du lịch mà họ bỏ công và tiền để xây xong khá đẹp, làm ăn phát đạt. Cán bộ động lòng tham, muốn nhảy vào tranh phần. Quyền lực trong tay, vậy là ập vào… tịch thu, bằng cách “chụp mũ” phản động, lật đổ chính quyền.

Thời gian dài sợ hãi, bởi đó là một chế độ độc tài. Giờ đây sợ sệt này không còn nữa, bởi tức nước, ắt phải vỡ bờ…

Liệu có ai dám tưởng tượng một tổ chức phản động, chống lại chính quyền có tổ chức, một tổ chức chính trị thực sự, nhưng số tiền mà chính quyền tịch thu được của tổ chức phản động này chỉ có khoảng 9.000 đến 10.000 đô la.

Đây chỉ là số lượng tiền dùng cho một cơ quan. Bởi vì công ty sinh thái Đá Bia này là một công ty du lịch, thành ra số tiền này, chỉ là dùng để chi trả cho công trình, hoặc là trả lương cho nhân viên. Đồng thời công an nói bắt được vũ khí là 19 kíp nổ. Điều này, là… ngớ ngẩn, vì khi xây dựng, thì theo bản cáo trạng, những người này đã đục đá, khai tường, rồi khắc bia trên đá.

Những kíp nổ ai cũng biết là để phá đá, hoặc làm tượng, hoặc khai thác đá.

Vì kíp nổ chứ không phải là mìn. Kíp nổ chỉ là ngòi nổ làm bung nứt, thành ra không có thể tấn công được ai hết. Đồng thời công an cũng bắt được 10 bộ điện đàm. Đây cũng là một ngớ ngẩn khác, vì trong một công ty du lịch, với một diện tích trên 10 ha, thì những bộ điện đàm đó là để liên lạc với các nhân viên ở đầu này, đầu kia. Những liên lạc như vậy hết sức là bình thường, và không có gì mang tính truyền tin bí mật ra nước ngoài hết…

“Ví dụ một tảng đá, khúc cây thì 22 người chúng tôi có thể xúm lại lật; nhưng còn chính quyền thì làm sao mà lật. Ngày xưa, Bác Hồ cần biết bao nhiêu quân lính, rồi bộ đội, súng ống đạn dược biết bao nhiêu nước cung cấp mới lật đổ được ‘ngụy quyền’.

Bây giờ chúng tôi 22 người lật thế nào? Tôi không hiểu thế nào. Chúng tôi có nghe phong phanh công an nói là bắt bị lầm, mà thả ra không được.

Họ là người già đi tu, người trình độ thấp, mà chỉ 300 người lật một xã không được, chứ sao lật được cả nước Việt Nam?".

Ông Nguyễn Thái Bình, nói. Trong vụ án này, ông Bình nhận bản án 12 năm tù về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Thay lời kết

Dường như chính quyền cố tình làm lớn vụ này, thật sự là để trấn an nội bộ hơn là để răn dân chúng.

Vì hiện nay, người dân đã thấy rõ rằng, cái "chủ nghĩa xã hội", "chủ nghĩa cộng sản" không còn thuyết phục được ai hết. Hành động của các đảng viên, cán bộ Nhà nước không có gì là "xã hội chủ nghĩa", hoặc là "cộng sản".

Những người nhân danh cộng sản, chẳng còn ngại dấu diếm việc thích của cải tiền bạc, và sống phô trương sự giàu có một cách công khai.

Nếu lôi kéo nội bộ vào chủ thuyết cộng sản, thì không thuyết phục được. Thành ra, nếu nội bộ không đoàn kết với nhau để bảo vệ chế độ, thì chắc chắn có thể bị những người dân bình thường như 25 người nói trên đe dọa chỗ đứng của mình. Chính vì sự đe dọa như vậy, mà họ phải kết hợp với nhau thành một khối để đàn áp lại khối đa số kia, vốn đang có những suy nghĩ tiêu cực về chế độ.

Họ dùng yếu tố "sẽ bị lật đổ", "bị dân chúng thù ghét" hoặc "trả thù" để đoàn kết nội bộ, để tiếp tục cầm quyền.

Nguyễn Gia Định