Bước sang tháng Tư, không khí của
những ngày định mệnh lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông.
Năm nay đặc biệt hơn vì đây là cột mốc
lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta nhìn lại quảng đường
chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.
Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh
là “hòn ngọc viễn đông”, từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành
lập Singapore.
Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo
đầy đường phố nêu cao thông điệp về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những
con số tăng trưởng kinh tế “đầy tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo”.
Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn
mở rộng sau 40 năm - nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu
tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ.
Tốc độ phát triển chóng mặt của những
con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung luôn khiến giới
quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng, cũng phải giật mình.
Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành
tích của Sài Gòn, có lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng”. Trong khi hàng tá vấn
đề cho đến nay, Sài Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế
tắc, nếu chính quyền vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ
vẫn làm.
Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng,
đô thị - điều khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một
cách vô vọng.
Bốn mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả
về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế - xã hội. Các áp lực dân số,
chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội, sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa
đô thị… là không thể tránh khỏi.
Để rồi người dân Sài Gòn – vốn đã
“già trước khi giàu” – nay phải quẩn quanh bên một “thành phố ao làng” với hàng
loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm (khói, bụi, tiếng ồn,
nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông, lúa nước lũ lượt kéo
nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là “văn minh thành phố”
lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây xanh bao phủ, là hầm
vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng nhiều cây cầu
khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước - chặn sau” theo kiểu nhóm lợi
ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến trường.
Để rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó
khăn cũng phải vét tiền của lo cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục”. Nhà ổ
chuột cho dân ở, trong khi nhà cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả
bong bóng bất động sản vỡ…
Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản
hay Singapore đều để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của
dân.
Tổng thống Mỹ Barack Obama với hệ thống
chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu tranh cãi), Thủ tướng Nhật Bản
Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa
kép 2011.
Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm
xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng châu Á.
Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt
Nam nói chung, các vị nhận không biết bao nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng,
ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ đời sống hiện đại hóa, để rồi số công
trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón
tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại
quả.
Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn
là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn”, trong khi dân phải mang tiếng
“xin”, chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng
“còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA”.
Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn
vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên.
Trong tầm nhìn chiến lược phát triển
công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn của công
nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ, máy công
nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin;
iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp
phần mềm, nội dung số).
Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi
nhọn” quan trọng, không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản cũng từng trải qua.
Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay
là lúc ai cũng hốt hoảng khi chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn
trên.
Nhưng xin thưa, 5 năm là một con số
“viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch số 0. Nghĩ
làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện nhỏ nhất
phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải nhập
khẩu.
Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” –
ngành công nghiệp cơ bản của mọi ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và
đầu tư – ra đời từ hơn chục năm trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để
nó dậm chân tại chỗ, mệt mỏi, thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng
hóa tiểu ngạch, chính ngạch của Bắc Kinh.
Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh
nghiệp phụ trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?”
Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp
con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi
ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế
quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch
tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại
nhập?
Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt
Nam vẫn loay hoay lắp ráp để… chờ chết”, chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp
công nghệ cao – chỉ tổ khiến dân chờ, đợi, mỏi mòn và thất vọng.
Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp
được ưu tiên phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da dày, nhựa, chế biến nông
lâm thuỷ sản, khai thác chế biến nhôm, thép, hoá chất cũng đã và đang hấp hối.
Xưa nay, không ít các vị lãnh đạo vẫn
cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu”, cho rằng Sài Gòn
có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên.
Để rồi khi công nghệ cao ngoại nhập
khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng chơ, chai sượng của những người
dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể
toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất nghiệp.
Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa
ngành dệt may, mía đường, sữa,… liên tục “than trời trách đất” trong những năm
qua trước áp lực của các doanh nghiệp ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng
ta đang yếu đến cỡ nào.
Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về
môi trường đầu tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện
“choáng váng”.
Một là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện
trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng nào tại Việt Nam.
Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị
điều tra tham nhũng, hối lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn
2009-2012.
Ba là, Ngân hàng Thế giới (World
Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập đoàn Louis Berger
Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai dự án do Ngân hàng
Thế giới tài trợ tại Việt Nam.
Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn chế
quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân hàng Thế giới vì không quản lý được
các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự
án: Giao thông Nông thôn 3, và Đầu tư Ưu tiên Cơ sợ Hạ tầng Đà Nẵng do Ngân
hàng Thế giới tài trợ.
Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên
Sài Gòn, nhưng những vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức
tạp mở đường cho các nghi thức “lót tay”, hay “lại quả”. Đó là chưa kể đến các
vụ bê bối về tham nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống
cảnh sát giao thông… Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư
Sài Gòn.
Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước
bất kể phải nếm mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu:
i) Hệ thống cung cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation);
ii) Giao thông vận tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv)
Chức năng đô thị (Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất
thải (Waste Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp
tác giữa khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).
Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ
nhà đến nơi làm việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40
năm: Đó là một con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt,
nước ngập úng với lượng rác thải khổng lồ.
Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh
sát giao thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường
nhỏ hẹp và biển báo đánh đố người dân – những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan
chức phải tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa
đường.
Và cũng trên con đường ấy, những chiếc
xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng lướt qua những mảnh đời cơ cực phải
lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn
mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.
Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc
tùng mừng 40 năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm
rồi cơ đấy” khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt
lấy từng chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui
lên”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét