Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

Quyền con người trong nhà nước pháp quyền



"Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc—-Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ".

(Trích Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ, ngày 4 tháng 7 năm 1776)

Trong Tuyên ngôn độc lập của nhà nước Việt Nam dân chủ công hòa, ông Hồ Chí Minh, viết:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".

Tuy nhiên có một thực tế là quyền của con người ở miền Bắc VN suốt hơn 85 năm, ở miền Nam VN từ 1975 đến nay, chưa bao giờ được tôn trọng.

Ngày 24 tháng 5 năm 2009, ông Trần Huỳnh Duy Thức – một doanh nhân trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đồng thời là một blogger – đã bị bắt và khởi tố ban đầu với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” theo điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam chỉ vì ông đã thực hiện quyền tự do biểu đạt của mình một cách ôn hòa, là một ví dụ.

SGB xin được trích giới thiệu một bài viết của ông Trần Huỳnh Duy Thức về quyền con người trong nhà nước pháp quyền.

==================================

Chúng ta thường nghe nói pháp quyền là quyền thượng tôn pháp luật – Pháp luật đứng trên hết mọi đối tượng – và áp dụng cho mọi người như nhau.

Cách hiểu này còn được gọi là pháp trị (rule by law) tức cai trị bằng pháp luật. Tuy nhiên điều gì sẽ xảy ra khi Pháp luật lại bảo vệ một đối tượng nào đó trên hết, chẳng hạn một tư tưởng chủ nghĩa, một chế độ chính trị, một đảng phái trị nào đó, hay thậm chí là một con người nào đó?

Câu trả lời đã quá rõ ràng: điều đó sẽ dẫn đến sự chuyên chế (hay chuyên chính theo cách nói của những người Cộng sản) mà ở đó Pháp luật được sử dụng làm công cụ cai trị của giới cầm quyền để duy trì quyền lực và quyền lợi cho mình.

Đây chính là tính chất chính trị căn bản và đã trở thành bản chất của các chế độ phong kiến hay còn gọi là quân chủ chuyên chế mà đối tượng bảo vệ trên hết của nó là vua.

Xâm phạm vua là tội đại nghịch, là tội đứng đầu trong luật hình sự và có mức hình phạt khủng khiếp nhất. Tương tự như vậy, ở các chế độ đảng trị thì bảo vệ đảng cũng là trên hết.

Các chế độ độc tài chuyên chế đang tồn tại ngày nay cũng với một bản chất như vậy, chỉ có khác về hình thức, chẳng hạn như vua bây giờ có thể là một (dù với một danh xưng khác), có thể là nhiều ví dụ như một nhóm chóp bu của một đảng hoặc là một chế độ chính trị gắn với một tư tưởng chủ nghĩa nào đó.

Việc xâm phạm đến các chế độ và chủ nghĩa đó luôn bị quy là tội nặng nhất đứng đầu trong các tội hình sự.

Ở Việt Nam các tội gọi là xâm phạm an ninh quốc gia được dành hẳn một chương đầu tiên của phần tội phạm của bộ luật hình sự, hầu hết có khung hình phạt cao nhất có án tử hình, như điều 79 – lật đổ chính quyền nhân dân, điều 88 – tuyên truyền chống phá nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bằng cách như vậy và theo tinh thần pháp trị – thượng tôn pháp luật, giới cầm quyền ở các chế độ như thế luôn dễ dàng đứng trên pháp luật, dùng pháp luật để bảo vệ đặc quyền riêng cho mình trên danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia.

Sự thượng tôn pháp luật kết cục là để bảo vệ tối thượng cho một nhóm đối tượng nhỏ hẹp nào đó dưới rất nhiều các danh nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thực ra chế độ phong kiến chưa hoàn toàn chấm dứt, chỉ có cái tên của nó là không còn hợp thời nữa nên phải dùng đến những cái tên hình thức khác nhau để che đậy bản chất không thay đổi của nó.

Như vậy, sự thượng tôn pháp luật là không đủ để đảm bảo cho một chế độ dân chủ. Đây chỉ là ý nghĩa thứ cấp của pháp quyền (rule of law).

Ý nghĩa sơ cấp của pháp quyền là sự bảo vệ các quyền của con người bằng pháp luật (hiến pháp và luật), kết hợp với ý nghĩa thứ cấp như trên sẽ dẫn đến kết quả là quyền con người sẽ được bảo vệ ở vị trí cao nhất của pháp luật.

Và do đó Nhà nước Pháp quyền (The rule of law) là một nhà nước mà bất chấp hình thức của nó là gì đi nữa thì pháp luật của nó phải bảo vệ các quyền của con người trên hết mọi đối tượng khác một cách bình đẳng cho bất kỳ công dân nào của nó mà không được có bất kỳ sự phân biệt nào về các thuộc tính sinh học, địa vị xã hội lẫn quan điểm chính trị của họ, cho dù đó là những cái thuộc về thiểu số rất nhỏ.

Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là một sự ủy trị để đại diện cho từng công dân một để bảo vệ quyền con người của anh ta một cách bình đẳng với tất cả mọi công dân khác mà không có bất kỳ đối tượng nào khác được đặt lên trên các quyền đó của anh ta.

Sự bảo vệ ở đây phải bao gồm sự đảm bảo để anh ta sử dụng được đầy đủ các quyền con người của mình, ngăn ngừa người khác xâm phạm các quyền này của anh ta và ngăn ngừa anh ta xâm phạm các quyền này của người khác.

Cho dù anh ta có bỏ phiếu cho nhà nước đó hay không thì nó vẫn phải bảo vệ cho anh ta như vậy, ngay cả lúc anh ta bị phạm pháp đi nữa.

Quyền con ngưởi tối thượng

Một nhà nước làm được như vậy thì tất yếu nó là một nhà nước dân chủ mà không cần phải gắn thêm thuộc tính “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ” làm chi trừ khi chỉ sử dụng nó như là một khẩu hiệu.

Dân chủ là một tính chất của xã hội được hình thành nên từ sự vận động trong thực tế cuộc sống của con người chứ không phải là một hình thức xã hội, một phương thức cai trị hoặc một mô hình chính trị.

Do vậy chúng ta hay thấy rằng có rất nhiều nước mang những cái tên dân chủ hay nhân dân thường lại là những nước phản dân chủ nhất, áp đặt nhân dân chuyên chế nhất.

Một xã hội sẽ có tính chất dân chủ chỉ khi nào người dân ở đó thực sự làm chủ chính mình – tức có thể sử dụng đầy đủ quyền con người của mình mà không cần xin phép ai và cũng không ai có quyền cho phép họ. Muốn làm được như vậy thì phải tuân thủ các nguyên tắc “Quyền con người trong nhà nước pháp quyền” như nêu trên.

Quy luật để công bằng

Có một thời, vào lúc mà chủ nghĩa Cộng sản đang thịnh hành, người ta đã tin rằng có thể đạt được sự công bằng bằng cách áp đặt tư tưởng giống nhau tuyệt đối cho con người và cào bằng nhu cầu vật chất của họ.

Nhưng học thuyết đó đã thất bại ê chề, đơn giản vì nó không hợp với quy luật tự nhiên của con người – tư tưởng và nhu cầu của con người không bao giờ có thể đồng nhất như nhau được.

Và chính sự đa dạng của những cái này làm cho xã hội loài người phát triển. Cưỡng bức để đồng nhất những cái đó đã làm cho sắc màu của cuộc sống xám xịt và xã hội lạc hậu đến mức nào thì chúng ta cũng đều đã chứng kiến.

Nhưng nếu có một quy luật về tinh thần giúp đạt được công bằng thì phải tồn tại một thành tố nào đó mà tính chất của nó đối với tất cả mọi người phải tuyệt đối giống nhau bất chấp sự khác biệt về thuộc tính của họ như màu da, sắc tộc, xuất thân, địa vị, tư tưởng, v.v…

Tương tự như thành tố thời gian vậy: ai cũng có được 24 giờ một ngày như nhau tuyệt đối bất kể họ sống ở đâu. Cho dù không quá phức tạp nhưng phải mất mấy ngàn năm và phải sau khi đã trải qua thảm họa của Thế chiến II thì nhân loại mới có thể thừa nhận rộng rãi rằng: Quyền con người là tuyệt đối như nhau cho bất kì ai là con người đang sống bất kỳ đâu trên hành tinh này.

Đây chính là nguyên tắc phổ quát của Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người mà Liên hợp quốc đã long trọng tuyên bố vào năm 1948. Nguyên tắc phổ quát đó cũng chính là quy luật của vũ trụ mà người ta không thể thay đổi được.

Rõ ràng là như vậy vì không ai có thể làm cho người khác tự nhiên không muốn mình có quyền được sống, được tự do, được an toàn cá nhân để hạnh phúc. Dùng quyền lực có thể áp đặt, tước đoạt các quyền đó của con người nhưng không thể làm cho họ thôi khát khao có chúng.

Như vậy Quyền con người chính là thành tố có tính chất bất biến và tuyệt đối bình đẳng đối với mọi người. Và nếu đảm bảo tôn trọng thành tố này thì chúng ta sẽ có được sự bình đẳng tuyệt đối cho từng người có được tất cả quyền con người hoàn toàn giống nhau như ai cũng có 24 giờ/ngày vậy.

Không ai có thể cho ai hoặc lấy đi của ai các quyền và thời giờ của họ cả. Đến khi đó ai nỗ lực tốt, biết tận dụng tốt hơn các quyền con người và thời giờ của mình thì sẽ có quyền sở hữu nhiều thành quả hơn nên sẽ vượt trội hơn.

Đây chính là sự bình đẳng cơ bản mà nó không chỉ tạo ra động lực lành mạnh thúc đẩy con người nỗ lực vươn lên mà còn là một cái nền không thể thiếu để kinh tế thị trường vận hành một cách đúng đắn: muốn vươn lên phải cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu của người khác thay vì giành giật và chà đạp.

Và khi đó xã hội loài người sẽ phát triển nhanh chóng vì nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của họ liên tục được đáp ứng một cách tốt nhất.

Quy luật bàn tay vô hình sẽ tự nhiên điều tiết nhu cầu và việc đáp ứng nhu cầu để đạt được một trạng thái cân bằng tối ưu. Tuy nhiên bàn tay vô hình không tự điều tiết được ở một số lĩnh vực và tình huống, chẳng hạn: đơn giản thì có bảo đảm an toàn thực phẩm phức tạp hơn là bảo vệ môi trường, hơn nữa là thuế và các chính sách vĩ mô khác như an sinh, lợi ích cộng đồng, … cho nên phải cần bàn tay hữu hình – chính là vai trò điều tiết của nhà nước.

Mà khi sự bình đẳng tuyệt đối được đảm bảo thì nhà nước lúc đó chính là nhà nước pháp quyền để bảo vệ quyền cho mỗi người. Nhờ vậy nó sẽ điều tiết các vấn đề trên đạt đến trạng thái cân bằng quyền lợi cho mọi người theo quan điểm của đa số.

Trạng thái đó là sự bình đẳng phổ biến mà sẽ thường xuyên biến đổi theo ý muốn thay đổi của con người, kéo xã hội phát triển lên theo đà tiến bộ về văn hóa của con người, làm cho con người ngày càng thịnh vượng hơn, văn minh hơn.

Thịnh vượng hoặc bất ổn

Trên là cách để chúng ta xây dựng một xã hội ngày càng công bằng hơn nhờ vậy mà thịnh vượng và văn minh hơn. Giá trị của cách này là ở chổ nó tạo ra một sự cân bằng thực chất giữa mọi người để họ thực sự chấp nhận trạng thái bình đẳng phổ biến vì họ đã có đủ quyền tự do để tranh đấu hoặc lựa chọn cho điều họ mong muốn. Chứ không phải giá trị của nó nằm ở chổ đúng sai của các quan điểm chuẩn tắc được lựa chọn.

Ở đây không có đúng hoặc sai, chỉ có quan điểm nào thuyết phục được càng nhiều người thì càng phù hợp cho bối cảnh từng giai đoạn. Không bao giờ có chân lý tuyệt đối ở các quan điểm này.

Mọi sự áp đặt quan điểm công bằng không những đã chứa đựng mầm mống bất công mà còn tạo ra sự bất mãn mà ngay cả có dùng quyền lực để ép buộc đi nữa thì cũng chỉ gây ra sự đè nén chứ không phải cân bằng, sự chịu đựng chứ không phải chấp nhận. Do vậy nó luôn tạo ra sự bất ổn triền miên rồi dẫn đến sụp đổ khi sự đè nén và chịu đựng đã tới hạn.

Tình trạng bất ổn lâu nay ở đất nước ta có nguồn gốc như thế nên nếu chúng ta không nhìn nhận và giải quyết vấn đề từ gốc thì mọi nỗ lực ổn định vĩ mô đều sẽ thất bại, gây thêm tai họa.


Trần Huỳnh Duy Thức


2 nhận xét: